20 thg 4, 2011

HỌC GIẢ AN CHI
Người làm rúng động nền học thuật Việt Nam

PHAN HOÀNG

Từ đầu thập kỷ 1990, bỗng xuất hiện một Huệ Thiên rồi An Chi như “từ trên trời rơi xuống” làm rúng động nền học thuật Việt Nam bằng những bài nghiên cứu, đính chính và kiến giải sắc sảo, thuyết phục. Anh phản biện, chỉ ra những sai lầm về tri thức của cả những “cây đa cây đề” vốn từ lâu chẳng mấy ai dám “đụng” đến. Biết tôi làm ở tạp chí Kiến Thức Ngày Nay nơi “trình làng” An Chi, người quen từ Nam chí Bắc cứ tò mò hỏi “An Chi là ai, tên của một người hay tên chung một nhóm người?” Mãi về sau, khi tôi đã chuyển sang gầy dựng tờ Người Đương Thời (nay là Đương Thời) và anh cũng chuyển sang cộng tác với tôi, vẫn không ít người còn nghi vấn “Thực sự An Chi là ai, người như thế nào?”. Bởi, dù tên tuổi học giả An Chi đã trở nên quen thuộc nhưng cho tới nay thông tin về cá nhân An Chi vẫn rất hiếm, hiếm như chính con người nhỏ thó hiền lành mà nội lực mạnh mẽ của anh, hiếm như lòng tự trọng và sự tự tin đôi lúc đến cực đoan của anh, hiếm như nền tảng tri thức hoàn toàn tự học và tích luỹ rất thâm hậu của anh, càng hiếm hơn ở con đường nghiên cứu khoa học mà anh suốt đời theo đuổi: góp phần “khai phá” và xây dựng ngành từ nguyên học còn “hoang hoá” của Việt Nam.


Võ Thiện Hoa (An Chi) năm 1958 ở Hà Nội

GIẤC MƠ ĐẸP CỦA MỘT HỌC SINH KHÁNG CHIẾN

Võ Thiện Hoa - Huệ Thiên - An Chi, ba tên gọi trong một con người nhưng cuộc hành trình từ Võ Thiện Hoa đến An Chi ẩn chứa khá nhiều bất ngờ thú vị.

An Chi là người Sài Gòn chính hiệu, sinh ra ở Gò Vấp, học sinh kháng chiến, tập kết ra Bắc, rồi lại trở về lặng lẽ sống và làm việc ở Thành phố Hồ Chí Minh. Anh mang hai quốc tịch Việt và Pháp. Một “sản phẩm” của lịch sử, bây giờ nghe thấy lạ, nhưng với thế hệ anh điều đó là bình thường.

Một chiều lành lạnh cuối năm, tôi đến nhà riêng của An Chi, nơi chỉ có hai vợ chồng “son” của anh đang sinh sống, nơi mà mới đây anh đau xót tiễn đưa người mẹ già về nơi an nghỉ cuối cùng. Căn nhà này nằm trên mảnh đất lâu đời của dòng tộc anh, và anh là người có trách nhiệm lo chăm sóc mồ mả, hương khói ông bà. Đã gần 20 năm rồi tôi hay lui tới căn nhà này để thăm anh, và trước đây còn thăm cả một người bạn láng giềng độc đáo của anh là thi sĩ Bùi Giáng.
Cũng đã gần cả chục năm nay tôi đã nhiều lần định làm một cuộc phỏng vấn “hoành tráng” về An Chi, nhưng dự định cứ mãi là dự định, để rồi bây giờ cuộc đối thoại đến một cách tự nhiên như bao câu chuyện khác giữa anh với tôi…

* Thưa anh, đã ở tuổi thất thập, mỗi dịp xuân về tết đến anh có cảm giác ra sao?
- Tôi nhớ đến những cái Tết ngày xưa, lúc đó mình chỉ biết “ăn” mà chưa biết lo. Vui và thích lắm! Bây giờ, cứ Tết đến thì buồn, không biết tại sao, mặc dù cũng không túng thiếu.

* Anh và gia đình đón Tết Nguyên đán có gì đặc biệt?
- Buồn! Nhất là mới mãn tang mẹ tôi chưa đầy một năm.

* Thường, khởi đầu một năm mới anh giở quyển sách nào ra đọc?
- Nhiều năm nay, từ khi dùng máy tính, tôi mở đầu năm mới bằng cách lên mạng và những trang web đầu tiên mà tôi vào là Aporrea của Venezuela, rồi Le Grand Soir, Voltairenet.org, và những trang tin tức khác. Bình thường, ngày nào lên mạng, tôi cũng vào Aporrea và Le Grand Soir trước nhất.

* Trong cuộc đời mình, có cái Tết cổ truyền nào để lại trong anh dấu ấn sâu sắc?
- Tôi nhớ giáp Tết Ất Mùi- 1955, lúc đó tôi được đại diện của Đoàn Học sinh bí mật Sài Gòn- Chợ Lớn (tôi là học sinh Trường Chasseloup-Laubat) cử đi dự bữa tiệc tất niên (Giáp Ngọ) do nhóm Kiên Chí của Trường Pétrus Ký tổ chức tại Nhà hàng Mỹ Hương, đường Galliéni (gần rạp Hưng Đạo bây giờ). Mấy chục anh chị em đều là học sinh kháng chiến. Thật là vui! Tại đây, lần đầu tiên, tôi được nghe bài hát Kết đoàn và lần đầu tiên được công khai bày tỏ lòng yêu nước của mình giữa đại diện học sinh nhiều trường công, tư khác nhau. Chuyện ngoài đời hẳn hoi, nhưng với tôi đó là một giấc mơ thật đẹp. Rồi Tết đến. Gia đình bên nội, bên ngoại đều rất vui. Tết hoà bình đầu tiên từ 1945 mà. Ngày mồng Một, tôi mở radio nghe Đài Nam Bộ, rồi cả đài miền Bắc. Hôm đó, được nghe bài hát của Đài Nam Bộ mà mấy câu đầu tiên của ca từ là “Tết năm nay là Tết trong Hoà Bình - Thủ đô tưng bừng, mừng Hồ Chủ tịch kính yêu - Đến nay Người đã về…” Không biết tại sao mấy chục năm nay, hình như bài này không được hát lại!


Học giả An Chi với người bạn láng giềng độc đáo-thi sĩ Bùi Giáng

LỜI “PHÁN” CỦA VỊ SƯ GIÀ & NIỀM SAY MÊ TỪ NGUYÊN HỌC

Học giả An Chi kể rằng, hồi nhỏ anh thường lẽo đẽo theo ông nội dẫn đi thăm một người bạn của nội. Ông này là vị sư trụ trì trong một ngôi chùa nhỏ, hành nghề bốc thuốc Nam chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Về sau ông nội mất, anh vẫn theo mẹ đến thăm nhà sư. Lần nọ, vị sư già nhìn anh rồi trầm ngâm quay sang mẹ anh nhỏ nhẹ nói đại ý rằng: Việc đời vốn dĩ hay phân chia thành các nghề, gọi tắt là sĩ-nông- công- thương. Cậu bé này dù có làm gì đi chăng nữa cũng sẽ quay về con đường của chữ “sĩ”. Và câu nói bất chợt ấy của vị sư già đã “vận” đúng vào đời anh…

Khi vượt tuyến ra Bắc bằng đường hàng không, chàng trai yêu nước Võ Thiện Hoa được cán bộ lãnh đạo hoạt động bí mật ở miền Nam viết thư giới thiệu cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Nhưng rồi anh lại không liên lạc với nhân vật lãnh đạo cao cấp nổi tiếng bấy giờ. Một thời gian ngắn ở Hà Nội, anh được vận động tham gia lực lượng thanh niên xung phong với lời hứa rằng sau khi hoàn thành nhiệm vụ sẽ được tự do lựa chọn ngành học. Hăm hở lên đường, anh tham gia xây dựng tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai, một năm sau nhiệm vụ hoàn thành anh chuẩn bị tinh thần đi học thì lại nhận lệnh chuyển sang Nhà máy chè Phú Thọ. Tiếp tục làm công nhân, nhưng anh và một số bạn trẻ miền Nam vận động lãnh đạo kiên trì vận động cho mình đi học. Mãi rồi ước mơ cũng thành hiện thực, anh ghi danh học lớp sư phạm trung cấp, ra trường được bổ nhiệm về dạy học ở Thái Bình. Chính trong thời gian vật loan [1] với nghề gõ đầu trẻ nay [2] gian khó giữa nơi heo hút, chàng thanh niên họ Võ đã bắt đầu tự học và tích luỹ kiến thức phong phú cho mình. Theo nhà báo Ngô Kinh Luân, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng người Thái Bình hiện sống ở TP.HCM cho hay ngày ấy ở Thái Bình giới văn nghệ trí thức không ai không biết Võ Thiện Hoa: “Ông là “đặc sản” của Thái Bình nay. Uyên bác thì khỏi nói rồi, mà dường như vẫn giữ được cái khí phách của người quân tử”!

Cũng chính thời gian ở quê lúa nổi tiếng của đồng bằng phía nam sông Hồng, cong người say chữ từ miền Nam này đã âm thầm đi vào nghiên cứu từ nguyên học. Học giả An Chi thổ lộ:
- Tôi là người chịu ơn rất sâu sắc về mặt tinh thần đối với tác giả Lê Ngọc Trụ mặc dù sau khi tích luỹ được một số kiến thức cơ bản về ngữ học thì tôi lại thấy ông không phải là người… tiên tiến. Tôi đọc Chánh tả Việt ngữ, bộ sách 2 quyển của Lê Ngọc Trụ (do nhà Nam Việt ở Sài Gòn xuất bản) năm 15 tuổi rồi từ đó mê luôn tiếng Việt, chữ Hán và từ nguyên. Thực ra, khi bắt đầu công việc nghiên cứu, tôi lại đi vào ngữ pháp tiếng Việt và đã có nhiều điều ghi chép mà tôi rất lấy làm tâm đắc, đặc biệt là về từ láy. Nhưng cũng chính khi đưa ra cách giải thích riêng về “nguyên lý” của từ láy thì tôi lại thấy phải đi vào từ nguyên.

* Xin anh cho biết cụ thể hơn.
- Lúc đó, tôi định nghĩa từ láy là giao điểm giữa một khung phụ âm đầu (hoặc khung vần) diễn đạt ý nghĩa chung với một vần (hoặc phụ âm đầu) riêng có tác dụng cá biệt hoá. Thí dụ như đối với bệu rệu, bịn rịn, bối rối, bộn rộn, bời rời, bủn rủn, v.v., thì B – R là khung phụ âm đầu chung còn ỆU, ỊN, ỐI, ỘN, ỜI, ỦN là vần riêng; đối với dần dà, lân la, nấn ná, ngân nga, v.v. thì ÂN – A là khung vần chung còn D, L, N, NG, là phụ âm đầu riêng. Khung phụ âm đầu B – R diễn đạt cái nghĩa chung của những từ đã nêu là: trạng thái tâm lý hoặc thể chất không ổn định hoặc không chắc chắn. Vần riêng ỆU cho biết đây là một trạng thái nhão của thịt; ỊN, một trạng thái lưu luyến; ỐI, một trạng thái lúng túng; v.v.. Ta cũng có thể phân tích kiểu tương tự đối với khung vần chung ÂN – A và các phụ âm đầu riêng D, L, N, NG. Nhưng xét cho thật chặt chẽ và khách quan thì chỉ có phần chung (khung phụ âm đầu hoặc khung vần) là đứng vững chứ phần riêng (vần hoặc phụ âm đầu) thì… Đồng thời nếu xét cho thật chặt chẽ và khách quan thì, ngay trong một từ láy, cả hai tiếng (âm tiết) cũng đều có thể có nghĩa. Chẳng hạn, trong bệu rệu thì cả bệu lẫn rệu, trong bối rối thì cả bối lẫn rối, trong bộn rộn thì cả bộn lẫn rộn,… đều có nghĩa. Thế là cái “khung” của tôi vỡ toang. Tôi suy nghĩ lại và thấy rằng cả hai âm tiết trong từ láy đều có nghĩa mà đối với những yếu tố hiện không còn biết được nghĩa thì chỉ còn có cách đi vào từ nguyên. Quan niệm này của tôi về sau đã gặp quan điểm của Cao Xuân Hạo cho rằng mỗi âm tiết trong tiếng Việt là một từ. Ở trong nước thì quan điểm này đã được ông lập thuyết một cách hiển ngôn, kiên quyết và triệt để trong bài Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng, đăng lần đầu tiên trên tạp chí Ngôn Ngữ, số 2 năm 1985. Rồi 15 năm sau, để chào mừng sinh nhật lần thứ 70 của ông, tôi đã viết tặng nhà ngữ học kiệt xuất Cao Xuân Hạo bài Hiện tượng láy xét về phương diện lịch sử, chứng minh nghĩa và nguồn gốc của 100 yếu tố láy, mặc nhiên bị xem là những yếu tố vô nghĩa. Bài này đăng lần đầu tiên trên tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên – Huế, số 2 (24) năm 1999 [3].

Dĩ nhiên là còn có những nguyên nhân khác khiến tôi đi vào lĩnh vực từ nguyên nhưng trên đây là nguyên nhân trực tiếp, chủ yếu và rất thú vị. Và vì đã dấn thân vào cho nên phải theo đuổi nó đến cùng, đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Bây giờ, phụ trách mấy chuyên mục cho một vài tờ báo, thỉnh thoảng tôi cũng tranh thủ đưa cả chuyện từ nguyên vào đó.

* Cho đến thời điểm này, công trình về từ nguyên học của anh vẫn chưa xuất bản, vì sao, thư anh?
- Thực ra, nó cũng chưa phải là một công trình hoàn chỉnh. Với lại, tôi chưa thấy có nhà nào, chỗ nào thật lòng chịu in sách của mình cả. Ngay như bộ Chuyện Đông chuyện Tây 6 tập đã in (còn tập 7 chưa in), nay đã hết thì ít nhất cũng đã có 3 nhà xuất bản đến đặt vấn đề tái bản rồi đi… không trở lại [4]. Còn nếu mình bỏ tiền ra in thì lại vướng ở khâu phát hành. Vì vậy, tôi không thấy mình được khuyến khích để hoàn thành nó. Huống chi, sức viết bây giờ đã suy giảm, tốc độ viết đã chậm lại mà hiện nay tôi còn có trách nhiệm với các mục thường xuyên trên một số tờ báo như đã nói, nên phải bảo đảm đều kỳ cho người ta. Thành ra cái quyển Từ điển từ nguyên các từ Việt gốc Hán của mình, tôi hãy cứ treo nó ở đấy [5].

* Với tư cách người trong cuộc, anh nhận thấy lĩnh vực nghiên cứu về từ nguyên học ở nước ta hiện đang ở đâu? Và theo anh, những công trình từ nguyên học nào có giá trị thực sự?
- Tôi cho là đang ở bước đầu và theo tôi thì ta chưa có công trình nào về từ nguyên học.

* Việc tranh cãi về sự đúng sai trong từ nguyên học xưa nay vẫn thường diễn ra, tuy nhiên trong quá trình đính chính những cái sai của người đi trước hoặc cùng thời, anh đã gặp không ít phản ứng ngoài khoa học. Anh thường đón nhận sự phản ứng ấy bằng tâm thế ra sao?
- Ngay tức thời thì hơi bị sốc. Nhưng cũng ngay sau đó thì trấn tỉnh lại rất nhanh chóng vì lập trường của tôi rất rõ ràng: phản ứng ngoài khoa học là của người đuối lý.

* Cho tới thời điểm này, có công trình nào ngoài từ nguyên học mà anh ấp ủ nhưng vẫn chưa thực hiện được?
- Dự định thì có vẻ to tát nhưng lực thì lại hoàn toàn bất tòng tâm. Tôi còn muốn viết một quyển sách mỏng về phổ hệ của tiếng Việt để chứng minh rằng nó là một ngôn ngữ Tày - Thái chứ dứt khoát không thể là Nam Á. Riêng ở Việt Nam, người ta theo thuyết Nam Á vì quá mê tín A.-G. Haudricourt; không biết có phải vì ông ta là đảng viên cộng sản hay không. Chứ về thuyết của Haudricourt thì tôi đã có nhận xét và phê phán kỹ lưỡng trong bài Sai lầm căn bản trong kiến giải của A.-G. Haudricourt về phổ hệ của tiếng Việt, đăng lần đầu tiên trên Kiến Thức Ngày Nay số 143 (15.7.1994), sau đó in lại trong quyển Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm (Nxb Trẻ, 2004).

Trước đây, tôi còn dự định viết một quyển về ngữ pháp trên cơ sở những điều ghi chép của mình nhưng bây giờ, với lý thuyết của Cao Xuân Hạo, e rằng nó đã lỗi thời.


An Chi và thầy giáo Nguyễn Đình Bổng với 3 người học sinh cũ (hàng đứng)
của Trường cấp 2 Bình Thanh, Kiến Xương, Thái Bình hội ngộ

TỪ KIẾN THỨC NGÀY NAY ĐẾN ĐƯƠNG THỜI

* Anh từng được độc giả biết đến nhiều qua chuyên mục “Chuyện Đông chuyện Tây” trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay mà sau đó đã tập hợp in thành sách nhiều tập. Điều gì từ công việc này còn đọng lại trong anh?
- Tôi cộng tác với Kiến Thức Ngày Nay từ 1990 đến 2007. Thời gian phụ trách “Chuyện Đông chuyện Tây” thì gần 15 năm (1992-2007). Với thời gian dài như thế thì kỷ niệm đâu có ít. Vui nhất là giai đoạn 10 năm đầu. Anh chị em ở toà soạn và tôi quý mến nhau gần như là người nhà, đặc biệt là giữa tôi với Thư ký toà soạn Lê Khắc Cường và Phan Hoàng. Nhớ đến ngày mồng 3 tết Ất Hợi (1995) thật là vui: anh chị em trong ban biên tập và toà soạn đến chúc Tết thân mật, chân tình và rộn rịp; tôi không bao giờ quên. Rồi dịp tôi mừng tân gia, tập thể anh chị em tặng bộ sơn mài Phước, Lộc, Thọ, bạn Lê Khắc Cường tặng bức Ông đồ, bây giờ vẫn còn trân trọng treo ở phòng khách. Còn bộ chén xinh xắn do vợ Phan Hoàng chọn đem đến tặng bây giờ tôi vẫn còn trân trọng giữ trong tủ.

Lúc bấy giờ, việc liên lạc giữa An Chi với Kiến Thức Ngày Nay hầu như là thường xuyên, cũng như giữa An Chi với Đương Thời bây giờ. Tôi còn nhớ như in lần Phan Hoàng chở tôi đến quán cà phê của báo Văn Nghệ; lần đó có gặp nghệ sĩ Tấn Thi và nhà văn Lý Lan ngồi ở bàn bên cạnh. Nhưng vui nhất là Phan Hoàng chỉ cho tôi biết, ở một bàn khác, cũng bên cạnh, nhân vật đã từng đòi đổi chữ “thiện” trong tên thật của tôi (Võ Thiện Hoa) thành thiện… là con lươn!

* Chắc anh còn nhớ tai nạn nghề nghiệp liên quan đến câu đối về “Củ Chi…”?
- (Cười) Tôi làm sao quên được. Thật là rắc rối mà… rộn rịp. Tôi nhớ những khiếu nại, kiện cáo từ phía bên kia đã gây không ít sóng gió cho Kiến Thức Ngày Nay. Ba nhân vật “cộm” của Hội Nhà văn TPHCM là Nguyễn Quang Sáng - chủ trì, Anh Đức và Phạm Sỹ Sáu - thư ký cuộc họp đã đến toà soạn họp với ban biên tập và đương sự là Huệ Thiên (lúc bấy giờ An Chi hãy còn ở tận đâu đâu!). Kết thúc cuộc họp là kỷ luật dành cho Huệ Thiên: “Tác giả Huệ Thiên ngưng phụ trách Chuyện Đông chuyện Tây một thời gian”. Việc dàn xếp cũng khéo léo chẳng thua kém gì trong… ngoại giao thế giới. Nguyễn Quang Sáng nói: “Thế có nghĩa là Huệ Thiên chỉ ngưng một thời gian. Trong thời gian đó, ông cứ tiếp tục viết, nhưng dưới một cái tên khác; khi nào chuyện này nguội đi thì ông sẽ ký lại… Huệ Thiên”. Biết tỏng là thực tế sẽ diễn ra như thế nhưng, tinh ranh hơn để được thực sự “đúng đắn về lập trường”, Anh Đức phán: “Không nên làm thế. Tạm thời, các anh phải tìm một ông giáo sư danh tiếng (không có hai chữ “lẫy lừng” kèm theo – AC), nhờ người ta làm, rồi từ từ mới tính được.” Ban biên tập, mà thực ra, có lẽ là chủ báo, vì mê Kim Dung, nên đã chọn cho Huệ Thiên cái tên Lão Ngoan Đồng [6] (nhân vật trong Anh hùng Xạ Điêu) còn Huệ Thiên thì cứ muốn “y chang” nên đã tự mình chọn cái tên An Chi. Sau nhiều lần giằng co, Huệ Thiên đinh ninh rằng mình sẽ mang cái tên Lão Ngoan Đồng vì thư ký tòa soạn nhấn mạnh rằng đó là ý muốn của chủ báo. “Chuyện Đông chuyện Tây” vắng bóng đến 5 kỳ trên Kiến Thức Ngày Nay, từ số 117 đến 121 (để còn tìm người) thì, đùng một cái, trên số 122 (1.11.1993), cái bút hiệu An Chi mới toanh đã xuất hiện để ký tên cho mục “Chuyện Đông chuyện Tây”. Nhưng nhiều người biết ngay rằng đây chính là “y chang” Huệ Thiên. Kỷ niệm thì còn nhiều và có thể làm thành một thứ hồi ký nho nhỏ đấy.

* Nhờ tai nạn ấy mà bút danh An Chi ra đời và có vẻ “hợp” với anh hơn. Có điều chính tôi và nhiều người cũng thắc mắc là vì sao anh không phụ trách “Chuyện Đông chuyện Tây” nữa”?
- “Chuyện Đông chuyện Tây” đã đưa đến với tôi những người bạn đặc biệt: Võ Thế Mỹ (Mỹ Tho), Trần Thế Vĩnh (Vĩnh Long), Đỗ Lai Vỵ (Nha Trang), Nguyễn Văn Điện (Hà Nội), Nguyễn Hồng Ái và Anh Cường (Vũng Tàu), Hà Kim Mích (Dầu Tiếng), Đặng Xuân Hiệp (Nghệ An), Nguyễn Công Trực (Đồng Tháp) và nhiều người khác. Như anh hỏi, điều đọng lại tồi tệ nhất là chủ báo không đăng bài mà không cho biết lý do, không đăng câu trả lời của người chính thức phụ trách để đăng câu trả lời của người khác vào ngay “Chuyện Đông chuyện Tây” là mục mà An Chi đã giữ trong gần 15 năm ròng rã. Vậy là tôi đành phải kết thúc “Chuyện Đông chuyện Tây”!

* Bây giờ thì anh đang phụ trách chuyên mục “Từ chữ đến nghĩa” và cộng tác thường xuyên nhiều bài vở khác trên Đương Thời. Chỗ thân tình, hỏi thật anh có cảm nhận ra sao về công việc của mình cũng như tờ Đương Thời?
- Ngoài Đương Thời ra, tôi còn cộng tác thường xuyên với mấy tờ báo khác: An Ninh Thế Giới, Người Đô Thị, Đại Học Quốc Gia TPHCM, và sắp tới là một tờ báo đang chuẩn bị những khâu cuối cùng để ra mắt bạn đọc. Đối với bất cứ tờ nào tôi cũng đều tôn trọng và quý mến nhưng riêng với Đương Thời thì mối quan hệ có phần chặt chẽ hơn, do ở Đương Thời có Phan Hoàng và anh em cũ bên Kiến Thức Ngày Nay là những người đã quen thân từ trước. Tôi thấy anh em có tâm huyết và khả năng để biến Đương Thời từ chuyên đề trở thành một tạp chí có giá trị, có uy tín trong làng báo: màu sắc đẹp đẽ, cách dàn trang hấp dẫn, bài vở có chất lượng, đề tài và chủ đề đa dạng, quan điểm chính trị - xã hội đúng đắn mà cởi mở,… Người phụ trách chính lại là Phan Hoàng từng có nhiều kinh nghiệm từ Kiến Thức Ngày Nay, lại có cá tính mạnh mẽ, có quyết tâm cao, đồng thời còn là uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn TPHCM, do đó mà triển vọng của Đương Thời tôi thấy rất sáng sủa.


An Chi với gia đình

NHỎ CON, NHẸ KÝ NHƯNG CỤC LÌ THÌ TO

Dù tình thân nhưng nghe những nhận xét của An Chi về tôi và về Đương Thời, tôi hơi “chạnh lòng”. Tôi biết anh thẳng thắn, chân thành, nhưng ngẫm lại tôi thấy năng lực mình có hạn và những người thực hiện tờ Đương Thời non trẻ còn phải phấn đấu rất nhiều để xứng đáng với niềm tin của học giả An Chi và bạn đọc.

Tôi chợt nhớ, sinh thời, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng trong một bài viết trên báo Tuổi Trẻ, khi nói về giới nghiên cứu khoa học xã hội mà ông thực sự nể trọng, lại không có học hàm học vị cao, người duy nhất ông nhắc tên là An Chi. Tôi hỏi:

* Thưa anh, trong giới nghiên cứu khoa học, anh cảm phục những ai và ai là người thường xuyên chia sẻ với anh về vấn đề học thuật?
- Tôi cho rằng giới khoa học nước nhà có không ít người để cho ta cảm phục nhưng riêng tôi, vì ít tiếp xúc và chỉ tiếp xúc với những người của giới ngữ học (hoặc tên tuổi của họ qua sách vở) nên cái nhìn của tôi chỉ giới hạn trong lĩnh vực này. Hai người mà tôi cảm phục nhất thì thứ nhất là nhà ngữ học kiệt xuất Cao Xuân Hạo và thứ hai là GS Nguyễn Tài Cẩn [7]. Chia sẻ với tôi về học thuật thì cho đến nay vẫn là nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương và TS Hoàng Dũng. Tôi rất kính trọng hai vị này về mặt khoa học.

* Có bao giờ anh thử hình dung về vị trí của mình trong nền học thuật nước nhà? Và anh có sợ những gì mình bỏ nhiều tâm huyết và công sức sẽ bị lãng quên?
- Nói hoàn toàn thật lòng thì tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này. Tôi vẫn nói với nhiều người bạn rằng cái mà tôi đã làm chỉ là “chuyện đông chuyện tây” để mỗi kỳ giúp vui cho bạn đọc trong chốc lát. Tôi vẫn tâm niệm câu “Sống gửi thác về”. Những thứ mình đã làm có được ai nhớ đến hay không không phải là điều quan trọng. Tôi muốn làm người học trò tinh thần cùa Oscar Niemeyer, kiến trúc sư vĩ đại người Brazil (đã giới thiệu trên Người Đương Thời số 17, tháng 12.2007), năm nay 103 tuổi, vẫn còn trực tiếp cống hiến cho đời. Trong một lần trả lời phỏng vấn, Niemeyer đã nói với nữ phái viên đặc biệt của tờ L’Humanité: “Có lúc tôi nghĩ rằng cái anh thanh niên đi phản đối sự bất công của thế giới trên đường phố là đang làm một việc còn quan trọng hơn cả công việc của tôi.”

* Anh là người tận hiếu với mẹ già, chí tình với vợ, tiếc rằng anh chị gặp nhau quá muộn nên không có con cái…
- Tôi rất sung sướng và hãnh diện về sự hỗ trợ của gia đình cho công việc của mình. Sau khi tôi phụ trách “Chuyện Đông chuyện Tây” một thời gian thì mẹ tôi, vợ tôi, mẹ vợ tôi và dì tôi đều gọi tôi là An Chi một cách thân thương, chứ không gọi tên thật hoặc dùng một từ trực chỉ nào khác. Riêng cậu tôi thì gọi bằng bút hiệu đầu tiên của tôi là Huệ Thiên. Lúc mẹ tôi còn khoẻ thì ngày nào bà cũng quét dọn bàn làm việc của tôi, sắp xếp sách vở, giấy tờ cho ngay ngắn. Mỗi khi có “Chuyện Đông chuyện Tây” số mới, mẹ tôi đều đem ra băng đá trước sân ngồi đọc, bất chấp có hiểu hay không hoặc hiểu đến đâu. Tôi mới dùng máy tính chừng 5 năm trở lại đây. Trước kia, tôi viết tay, thường thì 9 tờ A4 theo cỡ chữ của tôi là vừa một kỳ “Chuyện Đông chuyện Tây”. Có khi gần đến ngày nộp bài mà chưa xong, bà nhìn kỹ trên bàn rồi nói nhỏ với vợ tôi: “Mới có mấy tờ hà, con.” Bà không muốn con trai mình bị toà soạn trách móc. Vợ tôi cũng không để cho tôi phải bận tâm gì về công việc nhà cửa, kể cả những việc thường lẽ ra phải do người đàn ông lo liệu. Cô ấy lo cho tôi từ cái ăn đến viên thuốc, tóm lại là mọi thứ liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của chồng. Vợ tôi không trực tiếp giúp đỡ tôi trong công việc viết lách nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn nhờ cô ấy cân nhắc, lựa chọn từ, ngữ hoặc đọc hộ bản thảo để góp ý. Vợ tôi trách tôi nhiều nhất là về chuyện câu đối liên quan đến hai tiếng “Củ Chi”. Cô ấy nói nếu lần ấy mà tôi đưa cho cô ấy đọc thì cô ấy sẽ khuyên tôi nên bỏ câu đó và sẽ không có chuyện rắc rối gì xảy ra.

* Không phải người vợ nào cũng quan tâm sâu sắc đến công việc của chồng như vậy, nhất là trong lĩnh vực học thuật. Và như anh biết, nhiều bạn đọc cứ hỏi tôi về chân dung An Chi. Bây giờ, anh thử làm “hoạ sĩ” tự “vẽ” chân dung của mình…
- (Cười to thoải mái) Nhỏ con, nhẹ ký nhưng cục lì thì to. Người ta ghét thì càng làm cho ghét thêm. Thương người nghèo. Càng về già càng mau nước mắt. Yêu cái đẹp của thiên nhiên, của nghệ thuật và của cả những đường cong trên thân thể phụ nữ. Yêu độc lập và dân chủ chân chính. Căm ghét tư bản, đế quốc và bành trướng, bá quyền. Triệt để chống nguỵ thông tin (désinformation) của các tập đoàn truyền thông xuyên quốc gia.
***

“Người ta ghét thì càng làm cho ghét thêm”. Ấy là An Chi nói về những người đuối lý trong tranh luận khoa học nhưng cứ cố “cãi chày cãi cối” đối với anh. Và tôi cũng biết nói đến An Chi, có người quý mến, có người nể phục, cũng có người tỏ thái độ cay đắng, thậm chí… thù ghét anh [8]. Âu đó cũng là lẽ thường tình. Điều quan trọng là An Chi vẫn thanh thản sống và làm việc bằng tâm thế, nghị lực và lý tưởng khoa học mà anh đã chọn. Đặc biệt, công trình từ nguyên học mà anh suốt đời theo đuổi, dù đến nay chỉ mới công bố rải rác trên báo chí và trong hai bộ sách Chuyện Đông chuyện Tây và Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm, nhưng tôi tin nó sẽ chính thức ra đời trọn vẹn và có giá trị lâu bền.

Xuân Tân Mão - 2011 link





[1] Vật lộn?
[2] Đầy?
[3] Có in lại trong Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm.
[4] Phú tương bẫu! [Hán Việt từ điển của Thiều Chửu, tr. 359: sách không hợp với sự ưa thích của đời]
[5] TIẾC QUÁ!
[6] Chọn bút danh không hợp; vì tuy cả hai đều là bậc tôn sư trong lĩnh vực của mình, nhưng một đằng là “văn”, một đằng là “võ”, huống chi Lão Ngoan Đồng kia là kẻ có trí óc tưng tửng. Gặp tôi thì tôi chọn cho ông bút danh Đông Tửu, một nhà bác học về chữ nghĩa (xem tiểu thuyết Lửa hận rừng xanh của Hoàng Ly).
[7] Ông có một số bài viết tranh luận với Nguyễn Tài Cẩn, nhưng vẫn kính trọng như thường.
[8] Có thể thấy một số người ganh tỵ vì hai chữ “huyền thoại” mà Cao Xuân Hạo dùng để nói về ông. 

Học giả An Chi: Gánh chữ qua một phận người

Cuộc đời của nhà nghiên cứu hay nhà khoa học thường ít có những sự kiện đặc biệt. Báo chí nhớ đến học giả An Chi khi có vấn đề về chữ nghĩa. Thỉnh thoảng, tên ông xuất hiện ở vài bài điểm sách, khi báo chí giới thiệu cuốn "Chuyện Đông - Chuyện Tây" của ông.

An Chi bình dị như khoảng sân gạch trước nhà có vài chậu kiểng. Im ắng như con hẻm cụt buổi giữa trưa. Thi thoảng, "xé rào" tranh luận chút chút như con cu cườm dính bẫy được nuôi trong lồng kín, nhớ ruộng đồng cố gắng gáy vang một hồi lại lặng im... Cả đời ông dồn hết cho đam mê duy nhất: nghiên cứu từ nguyên học.

Hôm gọi điện thoại hẹn bác An Chi xin buổi trò chuyện ngắn, tôi nửa như ngần ngại nửa lại háo hức. Thật ra, ít có người trẻ nào đủ can đảm ngồi "tay đôi" với người học giả uyên bác này. Thêm nữa, tư liệu về An Chi quá ít. Kể cả từ sách báo cho đến Internet. Chắc chắn rằng, riêng về khoản tự đánh bóng mình, học giả An Chi còn kém lắm so với nhiều người khác.

An Chi tên thật là Võ Thiện Hoa, dân Sài Gòn chính tông, ông học trường Tây ngày trước (nay là Trường Lê Quý Đôn). Và do những điều kiện lịch sử nhất định, ông mang quốc tịch Pháp.

Chỉ cho tôi xem bức hình chụp cái lớp học của ông ngày xưa vừa làm mới bằng cách xử lý máy tính lại, An Chi nói tất cả những người trong bức hình ấy đều đã định cư tại Pháp, chỉ còn mình ông ở Việt Nam. Hỏi lý do, An Chi trả lời bình thản: "Tôi yêu đất nước và con người ở đây".

Tôi hiểu, đó không phải là cách trả lời đãi bôi. Một người ít xuất hiện trên mặt báo, ít tiếp xúc với những câu hỏi mang tính chất "rình rập" của phóng viên như An Chi thì tuyệt đối không có kiểu cò kè để đẩy người nói chuyện sang câu hỏi khác [1].

Ngày An Chi còn nhỏ, ông thường theo ông nội đến thăm một người bạn. Bạn của ông nội An Chi là vị sư trụ trì ngôi chùa nhỏ và hành nghề bốc thuốc chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Ông nội An Chi mất, thi thoảng, ông vẫn theo mẹ đến thăm người bạn cũ ấy.

Có lần, vị sư già trầm ngâm nhìn An Chi rồi quay sang mẹ ông bảo: "Việc đời vốn dĩ hay phân chia thành các nghề, gọi tắt là "sĩ, nông, công, thương". Cậu bé này dù có làm gì đi chăng nữa cũng sẽ quay về con đường của chữ "sĩ"". Có lẽ, lời phán năm xưa của vị sư già ấy đã vận vào người ông như một sự linh nghiệm khó giải thích.

An Chi những năm theo học trường Tây sử dụng chủ yếu toàn tiếng Pháp. Nhưng ông vẫn kịp mê "Truyện Kiều", say chữ Quốc ngữ… Bộ sách làm thay đổi An Chi nhiều nhất có lẽ là quyển "Chính tả Việt Ngữ" của Lê Ngọc Trụ, xuất bản lúc bấy giờ.

An Chi coi bộ sách này như bửu bối. Dẫu cho giờ đây, trong căn nhà ông, sách đã lên đến hàng vạn quyển. Ông "nghiện" chữ ngay từ thuở nhỏ.

Rồi kháng chiến nối tiếp kháng chiến, An Chi cũng hăng hái tham gia các phong trào của học sinh, sinh viên nội thành. Căn nhà ông thành cơ sở hoạt động của Cách mạng. Hiệp định Genève ký kết, cuộc đời ông chuyển sang một bước ngoặt mới.

Bước ngoặt của cuộc đời, thì có bao giờ phẳng lặng đâu. Được sự giới thiệu của các cán bộ hoạt động bí mật, ông được tập kết ra Bắc để giới thiệu cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Tuy nhiên (mỗi lần "tuy nhiên" lại một lần thở dài [2]) do thời gian quá gấp, ông không thể xuống Cà Mau để theo đường thủy ra Hà Nội.

Vậy là mua vé máy bay và ngồi chuyên cơ cùng một số bạn bè đi tập kết. Ngày ấy, đi tập kết bằng máy bay được gọi là tập kết trái tuyến. Ra đến Thủ đô, không hiểu sao An Chi lại chẳng liên lạc với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Có lẽ, ông quên.

Ở Hà Nội, cán bộ của Phòng miền Nam thuộc Bộ Giáo dục vận động ông cùng các bạn tham gia lực lượng thanh niên xung phong với lời hứa "Hoàn thành nhiệm vụ sẽ được tự do lựa chọn ngành học chuyên môn". Vậy là An Chi hăm hở lên đường.

Một năm ròng trải qua tham gia xây dựng tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai, một tuyến đường sắt trọng điểm do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh và bác Phạm Văn Đồng chỉ đạo thực hiện. Hết tuyến đường sắt, đã sẵn sàng cho chuyện học hành trở lại, thì đột nhiên, ông nhận được lệnh phải tiếp tục sang làm công nhân Nhà máy Chè Phú Thọ.

Lần làm công nhân này, An Chi được phát thẻ công đoàn hẳn hoi. Vậy là được chính thức công nhận là công nhân thứ thiệt rồi. Những con mắt đau đáu với sách vở lại bắt đầu trỗi dậy. Rồi vận động, rồi thuyết phục các vị lãnh đạo cho ông và bạn mình được đi học.

Những ngày đầy căng thẳng. Cuối cùng cũng có lệnh cho ông được thôi việc ở nhà máy chè và đi học lại. An Chi ghi danh theo học lớp Sư phạm Trung cấp. Ra trường, ông được bổ nhiệm đi dạy ở Thái Bình. Lại bắt đầu những ngày gian nan.

Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng kể với tôi: "Ngày ấy ở Thái Bình không ai không biết Võ Thiện Hoa. Ông là "đặc sản" của Thái Bình đấy. Uyên bác thì khỏi nói rồi, mà dường như vẫn giữ được cái khí phách của người quân tử" [3]. Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng kể thêm: An Chi ra Hà Nội là vì ông mê chủ nghĩa xã hội.

Ông tuân theo những lý tưởng tuổi trẻ của chính mình. Không biết thực hư chuyện này ra sao. Không ai trò chuyện với một người mình kính nể mà cứ chăm chăm "khoét" hết quá khứ của người khác để… viết báo [4]. Thái Bình những ngày nhiều phiền muộn, An Chi đọc nhiều.

"Đọc không phải để tự học đâu. Đọc đầu tiên là để bù đắp thêm kiến thức cho mình đã", An Chi nói. Đọc nhiều về từ nguyên tiếng Hán, tiếng Phạn, tiếng Tây Ban Nha… Đọc nhiều, mê sách, rồi làm được đồng nào lại dồn hết tiền mua sách đồng ấy, An Chi dẫu không muốn nhưng vẫn cứ "trôi" dần ra gần hơn với những khốn khó đời thường.

Rồi may mắn, cái may mắn từ những bức thư tay của ông Ca Văn Thỉnh (thân sinh của nhạc sĩ Ca Lê Thuần), ông thường gọi là bác Tư Thỉnh, Giám đốc Thư viện Khoa học xã hội thời ấy, ông được đặc cách cho mượn sách trong Thư viện Khoa học xã hội.

Ngày đó, tốt nghiệp Trung cấp Sư phạm như An Chi thì không đủ tiêu chuẩn để được đọc sách trong thư viện chứ đừng nghĩ đến chuyện mượn. Muốn đọc sách trong thư viện phải có bằng cử nhân, muốn mượn sách về nghiên cứu vài ngày thì phải là…Phó tiến sĩ trở lên mới đủ tiêu chuẩn. Có được thư tay của bác Tư Thỉnh, An Chi tha hồ đọc, tha hồ tiếp cận với kho sách quý mà Thư viện Khoa học xã hội có được. Nhiều sách trong đó không hề xuất hiện trên thị trường sách đọc. Cơn "nghiện" sách của ông chắc có phần được thuyên giảm ít nhiều.

Sau khi đất nước thống nhất, ông chuyển về Sài Gòn và công tác tại Phòng Giáo dục quận 1. Đến năm 1984, An Chi đột ngột nghỉ hưu non. Đóng cửa nằm ở nhà đọc sách và nghiên cứu từ nguyên học. Đương nhiên, ai cũng bó tay trước cái tính của ông.

Nhà An Chi ít khách lui tới dần, ngoại trừ vài người bạn quan tâm đến nguồn gốc của chữ nghĩa. Rồi năm 1990, An Chi hứng chí lên viết báo cộng tác với Tạp chí Kiến thức ngày nay (KTNN). Vào những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX, mức độ phổ biến của tạp chí này rất khủng khiếp. (Tuổi thơ tôi tràn những bài báo trong tạp chí này, nhiều đến mức khi kể lại cho bạn bè nghe những câu chuyện khoa học in trong KTNN, chúng cứ một mực bảo rằng tôi… ba xạo). Cộng tác được hai năm, Thư ký toà soạn KTNN là nhà báo Lê Khắc Cường mời ông ra giữ hẳn mục "Chuyện Đông - Chuyện Tây".

Mục để giải đáp những thắc mắc trên trời dưới biển về chữ nghĩa, về các niên đại vua chúa, các thời điểm giao thoa lịch sử… của bạn đọc. "Chuyện Đông - Chuyện Tây" gắn liền với cái thương hiệu [5] An Chi ngay từ ngày đó.

Lúc mới viết báo, ông ký bút danh là Huệ Thiên (Có người đùa rằng chính xác cái bút danh này phải là Họa Thiên mới đúng, vì ông dùng bút danh theo kiểu đảo ngược chữ lót và tên của chính mình).

Rồi "Chuyện Đông - Chuyện Tây" dính.. tai nạn. Cái tai nạn ấy khủng khiếp đến mức An Chi đã từng nhận được đề nghị bằng công văn hẳn hoi: "Tác giả Huệ Thiên tạm thời ngưng công tác mục Chuyện Đông - Chuyện Tây một thời gian".  Mặc đề nghị, ông vẫn viết. Chỉ đổi bút danh là An Chi (tức "y chang"), Huệ Thiên vẫn hoàn Huệ Thiên thôi.

Lại lặng lẽ viết báo giải thích cho bạn đọc cặn kẽ chữ nghĩa, lại nghiên cứu, rồi tự học… An Chi vẫn là An Chi, âm thầm đúng kiểu như cách luận của Vạn thế sư biểu Khổng Tử "Lão giả An chi, bằng hữu Tín chi, thiếu giả Hoài chi" [6].

Hỏi: "Bác An Chi có biết vụ cư dân mạng lập ra cả một diễn đàn để tranh luận về bác không?". "Biết chứ, nhưng mình không can thiệp hay coi hoài làm gì đâu". "Vậy bác An Chi có biết nhiều người trong giới viết lách đồn rằng bác có trí nhớ siêu phàm, chỉ cần hỏi cái gì là bác lập tức liên tưởng đến chuyện ấy nằm trong mục này, sách nào không?".

"Cái này cũng có nhiều người thắc mắc đây. Nhưng thật ra sòng phẳng thì tôi chỉ trả lời những câu hỏi mình biết thôi. Trả lời cái chắc chắn theo căn cứ xác thực, chứ không phóng tư tưởng lên mây đâu. Mình ngại mấy vụ tranh luận như kiểu đòi Kinh Thi lại cho chúng ta chẳng hạn" [7], học giả cười sảng khoái.

Nhà cách mạng Trần Bạch Đằng trong một bài bình luận lúc ông còn sống có nhắc đến An Chi với những chữ rất trân trọng: "Tôi hết sức kính trọng ông An Chi, người phụ trách chuyên mục "Chuyện Đông - Chuyện Tây" trên Tạp chí Kiến thức ngày nay. Ông dạy ở phổ thông và tự học, kiến thức uyên bác".

Mà cũng có ai được như ông, ngoài cái tuổi thất thập vẫn lên mạng, đăng ký trang web trả tiền để đọc tin tức bằng tiếng Pháp, làm việc "chắc chắn là hơn 8 tiếng mỗi ngày", nghiên cứu loại hình chữ nghĩa thuộc hàng hiếm tại Việt Nam, mà vẫn giữ được cái chất "Gọi mình là ông An Chi, thích công việc nghiên cứu từ nguyên học thôi.

Chứ học giả cái gì? Cà phê hả? Thôi, mình bỏ cà phê rồi! Qua nhà mình chơi thôi". Vậy đấy, có thể An Chi không là một người đặc biệt [8].

Ngô Kinh Luân link



[1] Một phần nữa, theo tôi, là vì ông là người trung thực, thẳng thắn, “luôn luôn trong sáng” [lời tựa của NXB Trẻ trong quyển Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm]
[2] Ai thở dài?
[3] Cái này phải “check” lại, vì tên tuổi An Chi xuất hiện trong giới học thuật khá muộn.
[4] Đoạn này tác giả bài báo nói với độc giả chăng?
[5] Viết “thương hiệu” nghe mới được.
[6] Luận ngữ - Công Dã Tràng đệ ngũ: Tử viết: “Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi” [Tạm dịch để hiểu: Khổng Tử nói: “Ta nguyện ước người già cả thì được hưởng an lạc, bạn bè thì tin tưởng nhau, còn trẻ nhỏ thì được vỗ về”]
[7] Mấy cái vụ này, bàn chuyện Kinh Thi, ngôn ngữ Việt cổ, v.v đang ì xèo trên mạng.
[8] Buông thõng câu này nghe kỳ quá; hay là viết “đặc biệt”?

Từ "Chuyện Đông chuyện Tây" đến "Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm" (1)

Năm mươi lăm tuổi (1990) mới chính thức xuất hiện trên một tờ tạp chí hơi kén người đọc (Kiến thức ngày nay) - sau một quãng đời dài gian nan, lận đận, 49 tuổi đã về hưu non để đọc sách, nuôi chim cảnh - nhưng Huệ Thiên - An Chi (hai bút danh của Võ Thiện Hoa) đã sớm [1] khẳng định mình.

Từ hơn mười năm trước, cũng như nhiều người, tôi cứ ngỡ An Chi là bút danh của một học giả có cỡ nhưng muốn ẩn danh, hoặc đấy là tên chung của một nhóm người viết cho mục "Chuyện Đông chuyện Tây" của Tạp chí "Kiến thức ngày nay". Thế rồi nhà báo, nhà thơ Hoàng Hưng lò dò tìm hiểu và bảo với tôi rằng, An Chi là một người đặc biệt và rất "vô danh". Quả thật Võ Thiện Hoa đúng là người đặc biệt. Nếu xét theo lý lịch học vấn thì đúng là ông "hơi bị vô học". Trong cả rừng người đầy học hàm học vị nghiên cứu văn chương, ngôn ngữ, lịch sử... quá đỗi hoang vu [2] hiện nay thì ông chẳng là "cái đinh" gì! Mặc dù là dân Tây - có tên Tây hẳn hoi - và học Trường Chasseloup Laubat có tiếng ở Sài Gòn, rồi vượt tuyến (1955) ra Bắc, ông đã từng học Trường Sư phạm trung cấp trung ương và có một số năm dạy cấp 2, nhưng rồi xoay vần thế nào đó nên cứ loay hoay phải tồn tại bằng đủ thứ nghề: tạp vụ nhà ăn, thợ nguội, thợ điện, thủ thư... Nói cho nhanh thì ông đúng là kẻ tự học, và khá tự tin, nhưng [3] cần mẫn và có tài.

Không tự tin sao được khi đã dám lấy tên sách là "Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm"? Mà phải, các "nhà sấm" của giới học thuật nước ta không phải không "cả tiếng lại dài hơi" (thơ Lê Thánh Tông), nhiều vị học giả cứ như "học phiệt" vung bút như nện búa những ai dám khác ý mình. Ngay cả một số người trong giới ngôn luận báo chí nhiều khi cũng rất vội vã chế giễu những ai dám động vào các thần tượng văn hoá dù bất kể đúng sai. Vậy mà  Huệ Thiên - An Chi lại dám chất chính những điều mà ông cho là sai sót của cả những danh nhân văn hoá nước nhà như Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh... Chính Huệ Thiên - An Chi đã phân tích rạch ròi thẳng thắn rằng "Một Huệ Thiên bàn về chữ chớ của ông (Đào Duy Anh - YT) chứ bao nhiêu Huệ Thiên bàn về bao nhiêu chữ của ông cũng không mảy may làm lu mờ được tên tuổi của ông trong tòa lâu đài (văn hoá VN - YT) đó. Tuy nhiên đấy chỉ mới là  nói đi. Còn nói lại thì, dù Đào Duy Anh có là nhà văn hoá lớn đến mấy, ông cũng không phải là một thần tượng bất khả xâm phạm" [4].

Quan điểm ấy thật là chí lý. Nó khoa học và hết sức khách quan. Những nhà khoa học có tầm cao và chân chính như Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn... nếu còn sống chắc chắn sẽ sẵn lòng thừa nhận hoặc chí ít cũng khiêm nhường cầu thị mà trao đổi với kẻ hậu sinh, hậu học. Huệ Thiên - An Chi  đã phải chịu nhiều điều, nhiều lời phủ nhận không chứng minh một cách khoa học hoặc quy chụp của một số nhà học giả không phải là không đáng kính. Đó cũng là  bởi ông đã trung thực, nghiêm cẩn chỉ ra những cái sai, điều nhầm lẫn của không ít giáo sư, nhà nghiên cứu, nhà văn... như Trần Quốc Vượng [5] , Phan Ngọc, Nguyễn Lân, Hồ Lê...

Nếu như "Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm" (605 trang) đòi hỏi độc giả phải có một trình độ nhất định bởi đây là phần "nghiên cứu, trao đổi về ngữ văn và lịch sử" thì "Chuyện Đông chuyện Tây" (tập 1- 430 trang, tập 2 - 422 trang [6]) - là tập hợp những bài viết trên mục cùng tên của tờ tạp chí "Kiến thức ngày nay"  từ số 95 đến 239 có phần "bình dân" hơn. Mỗi bài viết trong mục này - dù ngắn gọn - nhưng đầy thú vị và hấp dẫn với những bạn đọc yêu mến, thích tìm hiểu văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ Việt Nam. Trong bài "Tự vịnh 60", ông viết: "Mơ màng chi đến màu danh lợi/ Rồi ra cũng một mớ phù vân". Thưa ông, việc viết như ông đâu phải là cầu chuyện danh lợi và nó cũng không bao giờ là mớ phù vân.  Nó cần thiết biết bao cho những ai nặng lòng với văn hoá, ngôn ngữ, lịch sử dân tộc. Và cũng từ những "tiếng trống" này, mong sao sẽ có thêm nhiều người có kiến văn, lịch duyệt và trân trọng với khoa học nhân văn đánh thêm những "tiếng trống" nữa, biết đâu lại cần thiết, lại có ích hơn nhiều "tiếng sấm" dậm dọa, ồn ào vô bổ trên "trường văn trận bút" xưa nay...

Y Trang 

(1) "Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm" - bút danh Huệ Thiên,  "Chuyện Đông chuyện Tây" - bút danh An Chi. Tất cả đều do Cty VH Phương Nam thực hiện, NXB Trẻ 2004. link



[1] Nhanh chóng?
[2] Ý nói gì?
[3] Vậy “tiền giả định” là những kẻ tự học thì không cần mẫn và bất tài sao?
[4] Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm, tr. 553
[5] Học trò ông là Nguyễn Thị Bảy có kể chuyện thầy mình bị An Chi phản bác sai về thời điểm ra đời hội Trung thu, mà thật ra An Chi đâu có đề cập vấn đề này. Xem KTNN 442
[6] Ra được 6 tập rồi.