9 thg 12, 2012

Anh chẳng còn chi chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi ...


Giã từ vũ khí [1]
Tác giả: Ngân Khánh[2]

Rồi có một ngày sẽ một ngày chinh chiến tàn 
Anh chẳng còn chi chẳng còn chi ngoài con tim héo em ơi 
Xin trả lại đây bỏ lại đây thép gai giăng với lũy hào sâu lỗ châu mai với những địa lôi đã bao phen máu anh tuôn cho còn lại đến mãi bây giờ

Trả súng đạn nầy khi sạch nợ sông núi rồi
Anh trở về quê trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao 
Vui cùng ruộng nương cùng đàn trâu với cây đa khóm trúc hàng cau với con đê có chiếc cầu tre đã bao năm vắng chân anh nên trở thành hoang phế rong rêu 

Rồi anh sẽ dựng căn nhà xưa rồi anh sẽ đón cha mẹ về 
Rồi anh sẽ sang thăm nhà em với miếng cau với miếng trầu ta làm lại từ đầu 
Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm mộ bia kín trong nghĩa địa buồn 
Bạn anh đó đang say ngủ yên xin cám ơn xin cám ơn người nằm xuống

Để có một ngày có một ngày cho chúng mình
Ta lại gặp ta còn vòng tay mở rộng thương mến bao la 
Chuông chùa làng xa chiều lại vang bếp bay lên khói ấm tình thương bát cơm rau thắm mối tình quê có con trâu có nương dâu thiên đường nầy mơ ước bao lâu



[1] Theo bản do Duy Khánh ca. Còn có tựa là “Một mai giã từ vũ khí”. Một trong những bài hát hay nhất về lính; được trình bày bởi giọng ca hay nhất về lính!
[2] Tức Nhật Ngân và Duy Khánh?

Chốn xa xăm biết người nhớ tôi những gì...


Tiễn người đi [1]
Tác giả: Lam Phương

Người ơi biết đêm nay nữa là mấy đêm qua rồi
Ngồi đây ngắm trăng về soi bóng đêm chơi vơi
Ôi tiếng tơ sao còn vương gợi lại trong giấc mơ
Bóng dáng năm xưa lúc xuân chưa tàn mộng lòng vừa đẹp đôi
Một sớm tinh sương tôi đưa người xa tôi

Người đi ngày qua năm tháng chưa phai mờ lòng ta
Hôm nao nước sông xanh một dòng đưa thuyền mình về đến bến lòng
Ôi xuân đi mau gió cuốn hoa rụng cành tàn mau
Hạnh phúc đã không do lòng người
Sao còn chờ mãi phút ban đầu

Rồi đây chốn xa xăm biết người nhớ tôi những gì
Người ơi có những chiều xuân én bay xôn xao
Mong bóng ai kia hoàng hôn chìm dần trên phím tơ
Thu đến bơ vơ đông qua ngỡ ngàng rồi hè lại buồn sang
Có nhớ thương nhau xin đưa vào trong mơ




[1] Theo bản do Giao Linh ca.

Người ở lại có bao giờ vui...


Tiễn đưa [1]
Tác giả: Lê Đức Long

Khi em về chừng như sang đông
Trời tháng năm mà nghe lành lạnh
Khi em về ngồi nghe biển hát
Chiều qua nhanh như em xa anh

Mai em về mình không đưa nhau
Lời cám ơn giữ lại cho người
Một nụ cười thôi cũng đủ
Mai em về ta không đưa nhau

Làm người ở lại có bao giờ vui khi tình nhân không còn đứng chung đôi
Làm người ở lại bao giờ cũng buồn như nụ quỳnh hương chẳng còn ngát hương

Em đi rồi còn chi em ơi
Bao yêu thương cũng theo người rồi
Em xa rồi trời buồn không hát
Mưa sẽ buồn ai vuốt tóc em

Em đi rồi tình ta tan mau
Và tháng năm phai tàn úa nhàu
Em xa rồi nụ cười đã tắt
Người ở lại có bao giờ vui


[1] Theo bản do Vũ Khanh ca.

3 thg 11, 2012

Đây miếng lòng mình tan nát rồi...


Thiệp hồng báo tin[1]
Tác giả: Minh Kỳ

Nhận được tin báo em lấy chồng
Bâng khuâng nhìn cánh thiệp buồn không
Hai năm sương gió tận miền xa
Mấy lần hồi âm vắng tin ngờ đâu giờ em đến xe hoa

Vì thời gian gian xóa tan hết rồi
Bao nhiêu lời ước hẹn đầu môi
Không mang theo kỉ niệm buồn vui
Biết rằng tình ta thế thôi thì đâu còn ước mộng xa vời

Em ơi giờ đây pháo hồng tan tác bay đưa người em đi lấy chồng
Có người im lặng buồn trông nhìn theo hun hút bóng xe hoa
Đây miếng lòng mình tan nát rồi
Tình chết từ đây

Giờ hành trang xếp xong hết rồi
Mai sông hồ kết bạn làm vui
Ta không duyên số thì đành thôi
Chúc người đẹp duyên lứa đôi và xin đừng nhắc nhở đến tôi [2]




[1] Theo bản do Giáng Thu ca.
[2] Xưa nghe bài này lần đầu tiên là trong tuồng cải lương Trúng số độc đắc, một vở cải lương có giá trị nghệ thuật vượt xa những tuồng cải lương tình tiền hiện nay. 

Người đã quên tôi rồi sao tôi vẫn còn chờ mong...


Trả lại em [1]
Tác giả: chưa biết

Trả lại em đêm dài chung đôi bóng dưới trăng sao
Trả lại em con đường in bóng mát của ngày nao
Trả lại em ánh đèn công viên đó dưới mưa bay những đêm Chúa Nhật nghe phố phường khua gót giày

Trả lại em ân tình xa xưa đó với trăng sao
Trả lại em đôi vòng tay âu yếm nụ cười trao
Trả lại em kỷ niệm yêu thương đó sống bên nhau đến nay trở thành xa cách rồi còn đâu

Người đã ra đi không thấy về
Tình yêu chôn sâu trong lặng lẽ
Còn chăng bao đớn đau
Lệ rơi đêm nhớ nhau
Ngày vui xưa đã tàn như nắng chiều

Để rồi đêm nay buồn trong xa vắng nhớ mênh mông
Người đã quên tôi rồi sao tôi vẫn còn chờ mong
Và nhìn áng mây chiều tan theo ánh mắt đăm chiêu sống trong chuỗi ngày ôm nỗi buồn quạnh hiu.


[1] Theo bản do Chế Linh ca.

Buồn nào sánh với chia ly...


Xác pháo nhà ai [1]
Tác giả: Lê Dinh

Đám cưới nhà ai đấy rồi
Xác pháo nào rơi cuối trời
Người về nhớ mãi không thôi
Ngày dài tiếp nuối đơn côi
Thương thay cho duyên kiếp lẻ loi

Gối chiếc mình ôm phút này
Dĩ vãng còn ghi nhớ hoài
Lệ nào ướt má hoen mi
Buồn nào sánh với chia ly
Yêu nhau mà mong ước được gì

Nước mắt rơi rơi mang nhiều thương nhớ bóng hình nào khó nguôi
Anh ơi ai hay đường đời nơi nao riêng em thương nhớ ôi buồn sao

Xác pháo còn rơi cuối đường
Nhớ mãi tình duyên lỡ làng
Một người tách bến nơi nao
Người về chiếc bóng đêm thâu
Anh ơi thôi tan hết mộng đầu




[1] Theo bản do Thanh Thúy ca.

2 thg 10, 2012

Ngày tháng tuy đã xa rất xa nhưng kỉ niệm sâu lắng...


Chiều vắng [1]
Tác giả: Nguyễn Tôn Nghiêm

Em ngồi bên khung cửa nhìn xuống phố mưa bay mắt buồn đợi chờ ai
Ngõ vắng hoa vàng rơi chim về nơi mái ấm mà người đi xa vời

Chiều vắng nâng phím tơ nhẹ rung thấy lòng thương nhớ thêm
Ngày tháng tuy đã xa rất xa nhưng kỉ niệm sâu lắng

Chiều vắng ai biết ai chờ ai có còn hay đã quên
Phố cũ thay biết bao mùa hoa mà người còn phương nào

Mong chờ mong chi nữa tình đã quá xa xưa chỉ còn là giấc mơ
Chẳng trách ai buồn ai cõi đời mênh mông quá bởi lạc lối đành xa nhau [2]


[1] Theo bản do Thùy Dương ca.
[2] Đã tính đi ngủ, bật tivi thì thấy Thùy Dương ca bài này; một bài hát nghe đã lâu, (nếu nhớ không lầm) qua giọng Thy Nga; mà ngoài trời thì đang mưa lớn, đành mở laptop.

29 thg 9, 2012

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi...


Cát bụi [1]
Tác giả: Trịnh Công Sơn [2]

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời mặt trời soi một kiếp rong chơi

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi để một mai tôi về làm cát bụi
Ôi cát bụi mệt nhoài tiếng động nào gõ nhịp không nguôi

Bao nhiêu năm làm kiếp con người chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy cho trăm năm vào chết một ngày

Mặt trời nào soi sáng tim tôi để tình yêu xoay mòn thành đá cuội
Xin úp mặt bùi ngùi từng ngày qua mỏi ngóng tin vui

Cụm rừng nào lá xác xơ cây từ vực sâu nghe lời mời đã dậy
Ôi cát bụi phận này vết mực nào xóa bỏ không hay


[1] Theo bản do Khánh Ly ca.
[2] Nội một bản này cũng đủ đánh giá tài năng của ông rồi!

Tôi mong rằng sẽ có ngày đẹp trời yêu thương...


Chấp tay nguyện cầu [1]
Tác giả: Lam Phương

Xin quỳ xuống xin quỳ xuống đây cùng nhau bắt qua nhịp cầu vì ta có chung nỗi sầu và cùng nhau chấp tay [2] nguyện cầu cho những người qua ác mộng còn lại hôm nay cho những người sau chiến cuộc gặp chuyện không may

Ngày từ giã trên chiếc xe đong đầy nước mắt
Mất niềm tin vì mất cả cuộc đời
Tôi đâu biết khi ra đi mang nhiều luyến tiếc
Đâu ai ngờ khi đi rồi là vĩnh biệt quê hương
Cơn lốc nào cơn lốc nào làm cách biệt thân nhân

Con đường mới chúng mình đã qua nhiều năm sống xa quê nhà mồ hôi tưới trên xứ lạ là [3] nhiều năm máu cơm chan hòa
Tôi mong rằng sẽ có ngày đẹp trời yêu thương [4] ta sẽ về ta sẽ về dựng lại quê hương [5]
Ta sẽ về ta sẽ về tìm lại yêu thương
Ta sẽ về ta sẽ về dựng lại quê hương






[1] Theo bản do Thanh Thúy ca.
[2] Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ): CHẤP: úp hai bàn tay lại, cử chỉ lễ phép để chào, thưa, xá. Chấp tay cúi đầu, chấp tay thưa, chấp tay xá./ CHẮP: úp hoặc nắm hay bàn tay vào nhau. Chắp tay vái. hai tay chắp sau lưng.
[3] Thanh Tuyền: và
[4] Thanh Tuyền: quê hương
[5] Thanh Tuyền: tìm lại yêu thương. Cũng là câu kết thúc.

Kỷ niệm xưa muốn chôn vùi đi tan tành...


Một đời tan vỡ [1]
Tác giả: Lam Phương

Tình ơi sao đen như áng mây chiều đông gió heo hút con tim lạnh căm
Đời sương gió bước chân lẻ loi âm thầm giây phút yêu đương xa vời lắm

Tình đầu êm như con sóng ru hồ xanh thoáng đã thấy đau thương thật nhanh
Kỷ niệm xưa muốn chôn vùi đi tan tành cho nhớ thương vơi rồi cũng đành

Tình một đời thì mang lứa dối
Còn tình một đêm sớm bỏ ra đi
Trở về tìm đường xưa chung lối
Chỉ gây khổ thêm mà thôi

Thà cuộc đời như con nước đưa bèo trôi đến lúc có lúc không cũng vậy thôi
Từ đây sẽ vắng câu mộng mơ xa vời đây [2] đó cho qua một kiếp người








[1] Theo bản do Duy Khánh ca.
[2] lần hai: đâu.

16 thg 9, 2012



– Học giả An Chi dần bước sang tuổi bát tuần nhưng sắc diện vẫn rất hồng hào. Giờ đây ông gác lại công việc nghiên cứu từ nguyên sau gần 50 năm theo đuổi vì sức khỏe và thời gian có hạn, nhưng vẫn chưa ngơi nghỉ hẳn mà hằng tuần, độc giả vẫn thấy An Chi trên Báo Năng lượng Mới ở chuyên mục “Những điều bạn có thể chưa biết” hay hằng tháng ở mục “Từ chữ đến nghĩa” của Đương Thời…[1] Ông vẫn tiếp tục lao động không mệt mỏi để góp cho đời những con chữ, những kiến giải, những câu trả lời thắc mắc mà đôi khi đã bao năm qua chưa ai giải thích cặn kẽ.

Tôi ghé thăm ông vào một ngày giáp tết dương lịch, không khí xuân dần bủa vây phố phường Sài Gòn nhưng đến căn nhà ông cuối con hẻm ở đường Lê Quang Định – Bình Thạnh thì tĩnh lặng, nhẹ nhàng, ung dung như chính gia chủ sống ở đó. Phòng khách gia đình nối liền thư phòng chỉ toàn sách là sách.
Nhấp một ngụm trà, ông nhìn vào khoảng không xa xa hồi ức về một thời trai trẻ với bầu nhiệt huyết lý tưởng cách mạng; những tháng ngày cầm bút, nghiên cứu, tranh luận, tai nạn nghề nghiệp; hành trình bút danh Võ Thiện Hoa – Huệ Thiên – An Chi và cả duyên nợ với Năng lượng Mới.
Lý tưởng tuổi hai mươi
Sau Hiệp định Genève 1954, Bắc – Nam tạm chia cắt thành hai miền để chờ ngày tổng tuyển cử, quá trình tập kết người miền Nam ra Bắc diễn ra sôi động và chàng trai tuổi đôi mươi Võ Thiện Hoa là một trong những người có mong ước đó.
Lần đầu tiên – giáp tết năm Ất Mùi (1955), lúc đó ông là đoàn viên Đoàn học sinh bí mật Sài Gòn – Chợ Lớn (ông học Trường Chasseloup – Laubat) cử [2] đi dự bữa tiệc tất niên do nhóm Kiên Chí của Trường Pétrus Ký tổ chức tại nhà hàng Mỹ Hương, đường Gallieni (gần rạp Hưng Đạo bây giờ). Đó cũng là lần đầu tiên, ông cùng mấy chục học sinh có tinh thần kháng chiến nghe bài hát “Kết đoàn” và cũng là lần đầu tiên được công khai bày tỏ lòng yêu nước của mình giữa đại diện học sinh nhiều trường công, tư khác. Một kỷ niệm sâu sắc của tuổi mới lớn, của một mùa xuân tràn ngập niềm tin và lý tưởng vào chế độ mới được ông kể lại tường tận, đầy cảm xúc tự hào.

Học giả An Chi tại thư phòng.

Nhưng con đường ra Bắc của ông cũng lắm gian nan. Ông có người cậu họ kháng chiến, chuẩn bị ra Bắc ở Đồng Tháp Mười là khu tập kết 100 ngày (Xuyên Mộc: 80 ngày; Cà Mau: 300 ngày), xin đi theo nhưng không được vì thời gian quá gấp gáp. Sau đó, chính ông đã trực tiếp gặp một cán bộ tại nhà một người bà con ở Máy Đá, Chợ Lớn (gần sân vận động Thống Nhất bây giờ) – mà sau 1975, khi trở về Nam, ông mới biết là ông Huỳnh Tấn Phát – người này nói sẵn sàng đưa ông xuống Cà Mau để tập kết ra Bắc. Nhưng khi biết ông ở trong Đoàn học sinh bí mật thì ông Phát không thể nhận vì không thể can thiệp vào tổ chức học sinh kháng chiến. Ông Phát chỉ tổ chức cho ra Bắc con em những gia đình chưa biết nhiều về kháng chiến để hai năm sau trở về làm nòng cốt cho tổng tuyển cử. Võ Thiện Hoa vẫn không nản lòng; thấy ông hoạt động công khai quá hăng hái, sợ ông bị bắt, mẹ ông đành nhờ cậu ruột của ông – cũng là cán bộ kháng chiến – tìm cách cho ông ra Bắc theo hướng khác: đáp máy bay ra Hải Phòng – là nơi Pháp còn đóng cho đến khi hết hạn 300 ngày – rồi tìm cách tới Hà Nội, vì thế ông nằm trong dạng vượt tuyến chứ không phải là người miền Nam tập kết ra Bắc như bao người khác.
Số ông cũng vất vả, lúc ông sắp ra Bắc, ông Năm Thành (Phan Kiệm) có bàn với ông Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) việc gửi gắm ông cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và đã viết thư bí mật để ông cầm tay ra Bắc. Với bức thư đó và nếu ông Phạm Ngọc Thạch giới thiệu ông với tổ chức thì có lẽ cuộc đời Võ Thiện Hoa đã theo một nghiệp khác chăng? Nhưng ông đã không liên lạc với ông Phạm Ngọc Thạch.
Sau này, trong khi nhiều bạn bè ông với lý lịch tốt thăng tiến thì vì nhiều lý do ông đã chọn một ngả rẽ khác, tự học, tự nghiên cứu từ nguyên.
Có lẽ cuộc đời mỗi người được định danh một số tử vi, mà số tử vi của ông thì không thoát cái nghiệp “sĩ” như lời vị thầy thuốc già, bạn của ông nội, đã phán cách đây 60 năm: “Việc đời vốn dĩ hay phân chia thành các nghề, gọi tắt là sĩ – nông – công – thương. Cậu bé này dù có làm gì đi chăng nữa cũng sẽ quay về con đường của chữ “sĩ”.

Duyên nghiệp với từ nguyên
Là một người bị đánh dấu hỏi sau khi vượt tuyến ra Bắc, lại thêm cái tính cứng đầu cứng cổ và trong ăn nói, sinh hoạt cũng khác người nên chàng trai Võ Thiện Hoa đã làm mếch lòng không ít người. Thêm nữa, thời gian ông ở miền Bắc, thỉnh thoảng ông lại được nhận quà của mẹ gửi ra qua đường Pháp hoặc đường Campuchia. Tổng hòa hai điều đó, càng làm cho sự nghi ngờ ông càng ngày càng lớn, dấu hỏi về Võ Thiện Hoa ra Bắc với mục đích gì luôn làm cho nhiều người băn khoăn.
Năm 1965 khi đang dạy Trường cấp 2 An Ninh (huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) thì giáo viên Võ Thiện Hoa bị sa thải, mất việc hơn một năm, sau đó ông làm “phụ động” [3] ở Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo viên Thái Bình với nhiều công việc lặt vặt, chủ yếu là kế toán nhà ăn kiêm việc chạy than, củi, muối, gạo cho nhà bếp. Cứ thế, công việc hằng ngày của ông là phải tính toán tiền nong gạo bị cho giáo viên và nhân viên của cả một ngôi trường gồm nhiều hệ, cuối tháng thì kết toán sổ sách. Công việc khá nhàm chán đối với một thầy giáo quen đứng lớp và thật sự chán với một người chỉ thích con chữ hơn con số.
Cũng chính trong thời gian bị “giam lỏng” này mà ông bắt đầu nghiệp nghiên cứu từ nguyên. Có lẽ cái nghiệp này cũng xuất phát từ cái tính cứng đầu, hay cãi của ông. Ông bắt đầu bằng một bài góp ý về ngữ pháp được đăng trên tạp chí Khoa học xã hội của ngành Giáo dục từ đầu thập niên 60 của thế kỷ trước. Rồi về sau, từ những bài nghiên cứu của nhiều được coi là “cây đa, cây đề” trước đó, ông cảm thấy khó chấp nhận nên đã viết, rồi được đăng, nhiều bài nghiên cứu, nhiều khi có tính chất phản biện mạnh mẽ [4].
Cái thời khó khăn mọi bề, giấy viết thì thiếu, không còn làm giáo viên nên Võ Thiện Hoa thiếu giấy vì không nằm trong diện được cấp giấy viết hằng tháng. May thay, có một vài đồng nghiệp hiểu và thông cảm hoàn cảnh của ông, đã gửi cho ông cả những tờ giấy đã viết một mặt. Nhờ thế, ông tận dụng mặt còn lại để viết.
Sau một thời gian nghiên cứu, ghi chép, ông thấy rằng nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, nhất là về từ láy thì càng phải nghiên cứu từ nguyên: rất nhiều yếu tố bị cho là tiếng đệm, là yếu tố láy, thực chất vốn là những từ cổ, vốn có nghĩa. Ví như, trong bệu rệu thì cả bệu lẫn rệu, trong bối rối, thì cả bối lẫn rối, trong bộn rộn thì cả bộn lẫn rộn… đều có nghĩa. Ông suy nghĩ và thấy rằng, cả hai âm tiết trong từ láy đều có nghĩa mà đối với những yếu tố hiện không còn biết được nghĩa thì chỉ còn có cách đi vào từ nguyên.
Từ nguyên là mảnh đất mới trong giới nghiên cứu Việt Nam lúc bấy giờ [5], nhưng ông không nhận mình là người tiên phong khai phá mà vẫn luôn cảm ơn ông Lê Ngọc Trụ, tác giả bộ “Chánh tả Việt ngữ” 2 quyển (do nhà Nam Việt, Sài Gòn xuất bản), về sau là giảng sư đại học. Nhờ vị này mà Võ Thiện Hoa đã lân la (chữ của ông) đi đến từ nguyên. Ông luôn cho rằng, tác giả này là ân nhân tinh thần trong cuộc đời nghiên cứu của mình.
Ông trầm ngâm và suy ngẫm khi tôi hỏi về kế hoạch xuất bản một cuốn từ nguyên tiếng Việt đầu tiên ở Việt Nam: “Thực ra, từ lâu tôi đã có sở nguyện làm quyển “Từ điển từ nguyên về các từ Việt gốc Hán” nhưng bây giờ thì thời gian và sức khỏe của tôi không cho phép”.
Ông cũng chân tình tâm sự: “Sau 40 năm nghiên cứu từ nguyên, tôi cho rằng kết quả cũng chưa được nhiều. Có lẽ mình không được đào tạo bài bản nên con đường đi khá dài mà chưa thâu được bao nhiêu kết quả” [6]. Đây là sự khiêm tốn đáng trân trọng của những nhà nghiên cứu chân chính.
Gặp nạn
Những năm 90, Võ Thiện Hoa cộng tác với Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay, ông lấy bút danh Huệ Thiên. Thời gian này, những bài viết trên chuyên mục “Chuyện Đông – Chuyện Tây” của ông với một số kiến giải mới mẻ, uyên bác về lịch sử tiếng Việt đã định hình một lượng lớn độc giả. Để rồi, suốt mười mấy năm sau đó nhiều người thành thói quen chỉ chờ báo ra là tìm bài của Huệ Thiên đọc ngay trước tiên “vì đó đều là kết quả của một quá trình tra cứu nghiêm túc, đầy trách nhiệm đối với khoa học và đối với những người đã có lòng tin cậy mình. Thêm vào đó là lời văn trong sáng, đĩnh đạc, nhiều khi dí dỏm một cách nhã nhặn và tuệ minh, làm cho việc đọc anh trở thành một lạc thú thanh tao” [7]– đó là nhận xét về ông của GS ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo.
Thế nhưng nhiều vị có tiếng trong giới nghiên cứu lại cảm thấy rất khó chịu vì Huệ Thiên liên tục đặt lại những vấn đề đã được các vị giải quyết rốt ráo từ lâu.
Cộng tác với Kiến Thức Ngày Nay chưa bao lâu thì ông gặp nạn [8]. Chỉ vì một đôi câu đối (được nhiều người truyền tụng) mà Ban Tuyên huấn và Sở Văn hóa – Thông tin TP HCM đã chỉ đạo Hội Nhà văn TP HCM đến họp với Ban Biên tập Kiến Thức Ngày Nay và đương sự để kiểm điểm và ông bị kỷ luật chính thức: “Tác giả Huệ Thiên ngưng phụ trách mục Chuyện Đông – Chuyện Tây một thời gian”. Đồng thời, Kiến Thức Ngày Nay cũng phải đăng lời xin lỗi bà K.H trên tạp chí của mình và Báo Tuổi Trẻ. Cái kỳ án ấy thật ra chỉ là một giai thoại liên quan đến nhà báo K.H thời bà còn làm Tổng biên tập tờ báo này ở TP HCM. Chuyên mục “Chuyện Đông – Chuyện Tây” tạm thời dừng 5 số để tìm người thay thế. Sau đó bút danh Huệ Thiên biến mất và chuyên mục cũ do An Chi, tức “y chang” Huệ Thiên, phụ trách. Đối với ông, đây là một kỷ niệm trong cuộc đời, bây giờ nhắc lại thấy hơi hài hước.
"Nợ” Năng lượng Mới
Giờ ông không còn cộng tác với Kiến Thức Ngày Nay sau ngần ấy năm gắn bó, nhưng độc giả vẫn không bao giờ quên Huệ Thiên một thuở và An Chi bây giờ.
Nhắc đến Báo Năng lượng Mới, ông xúc động nhớ mối cơ duyên với Tổng biên tập Nguyễn Như Phong từ ngày ông Phong còn làm Phó tổng biên tập An ninh thế giới [9], người thường xuyên mời ông viết bài cộng tác và có nhiều câu hỏi rất thú vị để An Chi trả lời bạn đọc thường xuyên trên các số báo. Thế rồi, trước khi Báo Năng lượng Mới ra đời được vài tháng, Tổng biên tập Nguyễn Như Phong mời ông về phụ trách một chuyên mục của Năng Lượng Mới, định kỳ là thứ 5 hằng tuần (bây giờ chuyển sang thứ 6) thì An Chi xuất hiện trên chuyên mục: “Những điều có thể bạn chưa biết”. Lại một hành trình chữ nghĩa nữa của học giả An Chi.
Ông tâm sự: “Tôi rất cảm động vì nhận thấy anh Như Phong quan tâm đến mình nhiều và thực sự tin tưởng ở mình nên tự nhủ phải đáp lại cho xứng đáng vì trách nhiệm thật không nhẹ nhàng. Tôi từng nói với vợ, muốn gì thì muốn, chỉ đến khi nào không còn sức lực để cộng tác nữa mới nghỉ, chứ còn khỏe thì vẫn viết cho Năng Lượng Mới”.

Ông An Chi và người bạn đời.
Cũng phải nói thêm rằng, ông và Như Phong có nhiều điểm tương đồng là cùng mê nhạc thính phòng, cùng mê chuyện chữ nghĩa, cho nên rất dễ gần nhau.
Từ ngày về phụ trách chuyên mục: “Những điều có thể bạn chưa biết” trên Năng Lượng Mới, học giả An Chi nhận được không ít thư của những độc giả từng đọc Chuyện Đông – Chuyện Tây hay Từ chữ đến nghĩa… Họ tiếp tục đàm luận với ông qua e-mail, qua điện thoại và nhất là chia sẻ sự đồng điệu qua những bài báo của ông. Có thể nói, đó là giá trị tinh thần mà ông luôn trân trọng.
Tuy nhiên, học giả An Chi cũng có chút băn khoăn: “Những bài viết của tôi trên Năng lượng Mới có hợp với sở thích của độc giả Năng lượng Mới không? Vì tôi quen nếp nghiên cứu nên không biết độc giả có thực sự thích không. Hay lỡ vì những bài báo có khi khô khan của tôi mà làm giảm lượng độc giả của Năng lượng Mới thì áy náy quá”. Đó cũng là băn khoăn thường tình vì các bài viết của ông không phải dễ đọc với tất cả mọi người nhưng tôi tin rằng những người yêu thích bài viết của ông vẫn luôn mong An Chi hãy “y chang” như bao lâu nay. Đó là sắc thái riêng của Võ Thiện Hoa – Huệ Thiên – An Chi trong mấy chục năm qua.
Nhìn lại mấy mươi năm đi qua, ông luôn cảm ơn người vợ cùng đồng cam cộng khổ, chia sẻ những niềm vui – nỗi buồn trong cuộc sống với mình; cùng lý tưởng, cùng niềm tin và thấu hiểu, bà gánh gần hết phần việc nhà để cho ông chuyên tâm nghiên cứu và viết báo.
Khoảnh vườn nhỏ trước nhà chỉ đủ cho hơn 10 loài hoa khoe sắc cũng làm không gian căn nhà xưa của ông bà An Chi luôn tươi tắn; thư phòng luôn ngập nắng để ông tiếp tục viết và đàm đạo với bạn bè về chữ nghĩa, văn chương. Dù cho cuộc sống có bao biến thiên – lịch sử có lúc nhiều biến động – đời ông có lắm thăng trầm nhưng An Chi vẫn “y chang”.
Thiên Thanh



[1] Đến nay, tháng 9/ 2012, tờ Đương Thời đã đình bản.
[2] Lẽ ra nên viết: - được cử…
[3] Đây là từ dùng ở miền Bắc. Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên: người ngoài biên chế làm những việc có tính chất nhất thời, không ổn định, trong cơ quan, xí nghiệp.
[4] Đây là chuyện xảy ra sau này (ông đã xác nhận riêng), tức là khi ông phụ trách mục Chuyện Đông chuyện Tây. Bởi vậy mới có bài “Học giả An Chi – người làm rúng động nền học thuật Việt Nam” 
[5] Bây giờ cũng còn mới.
[6] Có tay Hán Nôm học nọ, đưa ra một số từ nguyên cũng không khó lắm, mà nhiều cái sai be bét, lại “Tự Cao” mà chê ông là “học hành không đến nơi đến chốn”.
[7] Có mấy người được Cao Xuân Hạo khen?
[8] Cái vụ này, anh Lê Khắc Cường có thuật lai trên Facebook.
[9] Tôi vốn không ưa tờ  báo này; đối với tôi, đây là tờ báo “bồi bút” (tất nhiên có tác giả đàng hoàng cũng được đăng).

14 thg 9, 2012


Học giả An Chi: “Có Internet, tôi vẫn cần nhờ sách”

TTCT - Không bằng cấp cao, không danh phận lớn, nhất định không nhận mình là một học giả, nhưng có lẽ ông là một trong số rất ít người mà nhà ngôn ngữ Cao Xuân Hạo dành tặng những lời trân quý như “việc đọc anh trở thành một lạc thú thanh tao”.
Tác giả bộ sách Chuyện Đông - Chuyện Tây với những giải đáp tường tận, uyên thâm và hóm hỉnh về ngôn ngữ, văn hóa, điển tích... nay chỉ nhận mình là An Chi “từ nguyên”.

An Chi tên thật là Võ Thiện Hoa, sinh năm 1935, tại Sài Gòn - Gia Định. Ông phụ   trách mục “Chuyện Đông - chuyện Tây” của tạp chí Kiến Thức Ngày Nay từ năm 1992, kéo dài gần 15 năm, giải đáp những mối băn khoăn về chữ nghĩa, tri thức nói chung, sau tập hợp thành bộ sách cùng tên với sáu tập (NXB Trẻ) - Ảnh: Cẩm Phan 

Tôi thích ngôn ngữ, yêu tiếng Việt

* Vì sao lại là về “từ nguyên” (nguồn gốc của từ ngữ), thưa ông?
- Tôi vốn học văn - sử - địa (Trường Sư phạm trung cấp Trung ương khóa 1956-1959), ra trường được phân công đi dạy văn. Hồi đó sách ngữ pháp rất ít, mà lúc dạy vướng nhiều điều khúc mắc. Tôi có viết một bài góp ý về ngữ pháp (trao đổi về khái niệm tân ngữ trực tiếp - gián tiếp) cho một tạp chí khoa học xã hội, thấy ngữ pháp là vấn đề rất cần được chú tâm và mình nên chú tâm.
Từ lúc ấy tôi bắt đầu ghi chép về ngữ pháp, nhất là về từ láy. Tôi còn nghĩ ra một định nghĩa riêng về từ láy. Nhưng lúc đi sâu vào lại tắc nên tôi thấy cần tạm dừng để đi vào từ nguyên trước. Sau này, đi sâu vào từ nguyên học thì thấy đúng như ông Cao Xuân Hạo nói, mỗi âm tiết là một hình vị, một từ, thành ra không còn từ láy nữa.
Tôi chịu ơn về tinh thần rất lớn đối với ông Lê Ngọc Trụ, tác giả cuốn Chánh tả Việt ngữ mà tôi bắt đầu đọc từ năm 15 tuổi. Tôi thích ngôn ngữ, yêu tiếng Việt từ thuở ấy. Đối với tôi, việc nghiên cứu từ nguyên vừa là sở thích vừa là sở nguyện. Tôi thích từ nguyên do muốn tìm căn nguyên của tiếng Việt.

Dù chỉ có mấy tập Chuyện Đông - Chuyện Tây không thôi thì tôi cũng thấy học được của anh rất nhiều rồi. Vả chăng chính cuộc đời của An Chi cũng đã là một tấm gương sáng chói của ý chí vượt qua mọi nỗi gian truân để đạt đến một đỉnh cao của tri thức”.
“Những câu trả lời của anh trên tạp chí đã làm thỏa mãn phần đông độc giả vì đó đều là kết quả của một quá trình tra cứu nghiêm túc, đầy tinh thần trách nhiệm đối với khoa học và đối với những người đã có lòng tin cậy mình. Thêm vào đó là lời văn trong sáng, đĩnh đạc, nhiều khi dí dỏm một cách nhã nhặn và tuệ minh, làm cho việc đọc anh trở thành một lạc thú thanh tao”.
(Trích lời tựa của Cao Xuân Hạo cho bộ sách Chuyện Đông - Chuyện Tây) [1]

* Ngần ấy năm giao tiếp với độc giả trong chuyện chữ nghĩa, điều gì đọng lại trong ông?
- Tôi không nghĩ việc mình làm là to tát, chỉ nghĩ mỗi kỳ Chuyện Đông - chuyện Tây chắc cũng giúp vui cho độc giả chốc lát. Từ thư của độc giả yêu cầu giải đáp, tôi thấy nhiều người có trình độ khá, ngược lại có nhiều người trình độ bình thường nhưng thích hỏi những cái hóc búa, lại có nhiều bạn đọc rất trân trọng những vốn xưa của nước nhà. Đối với những nhân vật, biểu tượng, khái niệm xưa người ta rất cung kính.
Tôi cho đó là một điều hay vì cung kính, trân trọng vốn xưa thì dân tộc nào cũng nên dù rằng không nên sùng bái cá nhân, sùng bái cổ nhân, dựa hẳn vào những sự kiện lịch sử xa xưa mà biện hộ nếp sống thời nay. Tôn trọng vốn cổ, kính trọng tiền nhân, rất nhiều bạn đọc cho tôi thấy điều đó qua thư.

* Ấn tượng của độc giả về ông An Chi là “cái gì cũng biết”. Vậy có câu hỏi nào của bạn đọc ông không giải đáp được?
- Cái đó nhiều lắm. Về sau mục “Chuyện Đông - chuyện Tây” có ba trang, chứ thoạt kỳ thủy chỉ có một trang, mà người ta hỏi đủ chuyện sao mình trả lời hết được, đâu đủ hiểu biết để trả lời hết. Cũng không thể trả lời hết cho mọi người là vấn đề này tôi không biết. Thôi đành để độc giả hiểu là mình không có khả năng trả lời, mà sự thật đúng là như vậy.
Để là “học giả”, tôi phải hơn tôi nhiều lần

* Thời chưa có máy tính, Internet, ông thường dựa vào những nguồn tài liệu nào khi trả lời độc giả?
- Tôi không được học đại học, mà hồi trước không có bằng đại học vào thư viện rất khó, không được mượn những sách quan trọng cần để nghiên cứu. Lúc ấy, mượn được cuốn nào là tôi chép lại hết những thứ mình cần.
Cuốn từ điển thời hiện đại mà tôi có thiện cảm nhất là cuốn Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển Vietlex do nhóm của ông Hoàng Phê làm (Nhà xuất bản Đà Nẵng). Những vấn đề tổng quát tôi tra ở đó, còn khi cần đối chiếu tôi vào Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của, từ điển An Nam - Bồ Đào Nha – Latinh [2] của A.Rhodes, nói chung tôi dùng nhiều từ điển lắm.
Hồi ở Thái Bình, tôi mua được quyển Hạ trong bộ từ điển Từ Hải. Mày mò đọc từng chữ trong đó, xem có gì có thể liên hệ với từ nguyên trong tiếng Việt, dần dần tích lũy. Hồi đó tôi dùng cả ba quyển thượng - trung - hạ của Khang Hi từ điển [3], 36 tập. Cuốn từ điển từ nguyên mà tôi định làm bắt đầu từ khi tham chiếu cuốn này.
Tôi thường đưa nguồn tra cứu của mình khi trả lời trong Chuyện Đông - chuyện Tây. Sự thật tôi hầu như không đi điền dã, lại dị ứng với thư viện. Tôi chỉ trả lời dựa trên những gì may ra đã có trong đầu, nếu không có sẵn trong vốn hiểu biết thì nhờ vả tủ sách của mình.
Những vấn đề gì kiểm lại không thấy có trong tủ sách của mình thì thuộc về phần tránh né tôi đã nói ở trên, mà phần này thì nhiều lắm (cười). Chẳng hạn chuyện “vợ thằng Đậu” mà nhiều người hỏi, tôi có hỏi thêm mấy người cao tuổi cũng không ra được kết quả hay nên thôi. Hay hồi trước có một người hỏi về tên tuổi một bà được thờ cúng trong dân gian, tôi cũng không tìm ra được.
Nguyên tắc là căn cứ vào hiểu biết chung để lấy ra cái hợp lý nhất vì đâu phải tất cả đều nằm trong một cuốn sách hay từ điển nào đó.
Bây giờ có Internet, nhưng đối với tôi Internet cũng chỉ quan trọng ở phần tin tức thời sự, chứ tôi vẫn chủ yếu nhờ sách. Tôi vừa trả lời cho một anh bạn trên Facebook cũng vẫn phải nhờ sách, mà mỗi cuốn chỉ lấy được một chỗ thôi, ba chỗ ở ba quyển.

* Ông lập trang Facebook cá nhân từ khi nào?
- Chừng một năm nay thôi. Thỉnh thoảng rời bỏ sách vở vì chán hay vì mỏi mệt, tôi vào mạng đọc tin tức. Nghe người ta nói nhiều đến Facebook nên thử vào tìm hiểu, rồi thấy hướng dẫn mở một trang cá nhân cũng không khó lắm nên làm theo.
Tôi thấy Facebook vui, bổ ích dù cũng có những mặt tiêu cực. Vui là vì thỉnh thoảng mình có những người bạn mới, thỉnh thoảng có một bạn trẻ gõ lên tường của tôi, đề nghị tôi công bố ý kiến về chuyện này chuyện khác mà bạn ấy đang tranh luận với ai đó, rồi thỉnh thoảng viết lách gì đó được một bạn bình luận hoặc đánh dấu “like”, tôi cũng thích lắm. Tôi mới có 104 bạn thôi [4], một người bạn tôi thì đã có tới hơn 1.000 bạn.

* Ông nghĩ gì về những đề nghị có một ngày của trí thức trong năm? 
- Có một ngày trí thức cũng là một việc làm tốt. Vai trò của trí thức với quần chúng, với đất nước rất lớn, nhất là ở sự hướng dẫn, định hướng. Tại sao mình có ngày nhà giáo, nhà báo, doanh nhân mà lại chưa có ngày trí thức? Nhưng tôi phải nói luôn là tôi chưa bao giờ tự nhận mình là trí thức để đứng vào hàng ngũ (trí thức) đó cả. Ngay cả hai chữ “học giả” tôi cũng rất sợ, rất khó mà đạt được, hai chữ đó rất cao [5]. Tôi nghĩ tôi phải hơn tôi nhiều lần mới xứng đáng với hai chữ đó.
Trong nước, một số người đã được tôn vinh bằng hai chữ “học giả” rất xứng đáng, như cụ Đào Duy Anh. Tôi đã nhiều lần phản bác cụ Đào, nhưng vai trò của cụ đối với văn hóa Việt Nam rất lớn, lớn đến mức những phản bác của tôi chẳng có mấy nghĩa lý (cười).

* Ông trả lời rất nhiều thư độc giả. Nhiều người biết ơn ông nhưng cũng có những người phản đối, tranh luận khá căng thẳng. Ông đón nhận sự phản ứng ấy ra sao?
- Mình không thể tránh được chuyện phê bình của người khác. Hơn nữa, chuyện phê bình, nói như ông Trường Chinh [6] là vẫn “cần cái roi phê bình quất cho con ngựa lồng lên”. Phải như vậy nhiều khi giúp cảnh tỉnh mình, nếu không mình cứ chủ quan cho là mình đúng.

* Ông sẽ làm tiếp cuốn từ điển về từ nguyên chứ? Ông Cao Xuân Hạo từng nói một người có luận điểm khoa học quan trọng và thú vị như ông nhất định sẽ cho ra những chuyên luận sâu sắc.
- Tôi đang tính làm cuốn từ điển từ nguyên về các từ Việt gốc Hán, bây giờ nó vẫn bị treo lại vì tôi đang cộng tác với mấy tờ báo, ngốn hầu hết thời gian. Tôi có tư liệu nhưng cũng cầu toàn, nhiều mục từ cần sắp xếp bố trí lại, đưa ra từng trường hợp tương ứng ngữ âm cũng khá rắc rối nên vẫn phải để lại. Tôi ngưng cũng mươi năm nay, dù đã bắt đầu làm hồi còn ngoài Bắc.
Tư liệu nhiều nhưng phải rà soát, lọc ra, mất nhiều thì giờ lắm. Nghiên cứu về từ nguyên là một công việc tôi vẫn làm đều nhưng cũng không hi vọng sẽ có nhiều thứ để công bố.

Trước khi nghỉ hưu khoảng hai năm, lúc ấy tôi công tác tại Phòng Giáo dục quận 1 (TP.HCM), người ta đưa tôi xuống làm hiệu trưởng một trường nhưng tôi chỉ nhận làm quyền hiệu trưởng (để chờ tìm người) vì thấy mình không có khả năng. Tôi dạy thì có hấp dẫn được học sinh tí chút, nhưng dạy hay không có nghĩa có thể làm hiệu trưởng.
Bây giờ không phải ai cũng tỉnh táo để biết mình giỏi, dở cái gì để từ chối bổng lộc, chức tước [7]. Đây là cái bất lợi cho người Việt Nam mình. Lẽ ra ngay ở trường tiểu học đã phải dạy cho học sinh về điều đó, phải biết mình thế nào, mình có thể cống hiến cho xã hội về phương diện nào, tới mức độ nào. Chứ bây giờ xu hướng chung là hễ dạy được thì làm hiệu trưởng được, rất sai” - học giả An Chi.

CẨM PHAN - KHỔNG LOAN thực hiện



[1] Vậy mà có kẻ kể rằng Cao Xuân Hạo nói với mình là “cậu này (chỉ An Chi) toàn tự học nên kiến thức lỗ mỗ!”
[2] Nên viết “Latin” cho dễ nhận biết.
[3] Khang Hy tự điển.
[4] Tới nay con số đã tăng nhiều, trừ một số thuộc về tổ chức nào đó và một số kẻ “giấu mặt”, đa phần đều là người hâm mộ thật sự.
[5] Giờ thì giới học thuật, báo chí đa phần gọi ông là “học giả An Chi”. XỨNG ĐÁNG!
[6] Nhiều người (miền Bắc) thường hay trích dẫn lời lãnh tụ trong các bài viết của mình: đồng chí Trường Chinh/ Lê Duẩn/ Phạm Văn Đồng…nói/ dạy rằng…Cá nhân tôi không ưa.
[7] Có một dạng khác nữa là bình luận, giảng dạy những điều không thuộc chuyên môn của mình, mình không thực sự rành rẽ, hoặc về những đề tài vô thưởng vô phạt; phải chăng vì danh hão?