20 thg 11, 2010

Các vị thầy của tôi

Một trong những người thầy mà tôi kính mến và nhớ hoài là thầy dạy văn Nguyễn Văn Phùng (ở trường Phùng Hưng, Q.11, TP. HCM, năm 1987).
Trước khi tôi được “kiến kỳ hình” thì tôi đã “văn kỳ thanh” của thầy rồi: một ông thầy giỏi, nhưng rất nghiêm khắc, học trò đứa nào “quậy” là coi chừng bị thầy thấy (về sau, tôi có chứng kiến thầy phạt một bạn học bằng cách ra lệnh cho bạn đó nằm lên bàn và rồi quất roi vào bàn tọa); nói chung là “có uy”.
Rồi tôi may mắn được học thầy. Đúng là “danh bất hư truyền”; nhưng đằng sau sự nghiêm khắc là một con người có tâm hồn sư phạm (có lần trong khi thầy giảng thơ thì bạn Lê Huấn, học giỏi nhất lớp, quay ra sau cười vì bị một người bạn khác, Đoàn Bá Thọ, chọc ghẹo thì ngay lập tức thầy rầy “không được cười đùa khi thầy đang giảng về thơ Bác Hồ”; tất nhiên thầy không cấm cười khi thầy giảng về các bài thơ khác của Bác Hồ, như “sột sạt luôn tay tựa gảy đàn”,…), có óc hài hước (thầy thường nói giỡn là tuy mình không phải là Đảng viên nhưng lại “nắm trong tay hàng chục mạng”).
Rồi sự hồi hộp ban đầu dần dần thay cho sự yêu thích và cảm phục. Không biết sao, nhưng thật sự tôi rất thích thanh âm giọng nói của thầy, càng nghe càng thích (có lẽ hợp với lỗ tai tôi), nhất là vào buổi trưa mát mẻ, trong một không gian thường là cực kỳ im ắng của lớp học (vì đứa nào cũng sợ uy của thầy, ở trong lớp trường Phùng Hưng cũng như trong lớp dạy thêm, buổi tối, ở một trung tâm, hình như là ở đường Lý Thường Kiệt?). Tất nhiên, điều chính yếu là thái độ và khả năng truyền dạy của thầy: có lần khi giảng đến đoạn chị Dậu bán con trong tác phẩm “Tắt đèn”, trong giây phút xuất thần, thầy đã khiến cả lớp tôi xúc động đến rơi lệ (bạn lớp trưởng Tuyết Vân, đạt điểm tuyệt đối 40 cho 4 môn trong kỳ thi tốt nghiệp phổ thông cơ sở, khóc nức nở, lệ chan hòa; nhiều bạn khác, kể cả đám con trai chúng tôi, thì đều rưng rưng); còn lúc thầy giảng về các biện pháp nghệ thuật tu từ như ngoa dụ, ẩn dụ, vân vân thì cả lớp tôi đều cười ngặt nghẽo, hết đợt nọ đến đợt kia (vì thầy cứ “tố”, cứ “đế” thêm liên tục: nào là “lỗ mũi mười tám nhánh lông, chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho”, nào là “đi chợ thì hay ăn quà…”). Tôi nhớ hoài cách thầy đọc câu thơ “con đã về đây ơi mẹ Tơm” với chữ “mẹ” kéo dài. Cho đến nay tôi chưa thấy người nào giảng văn hay như vậy (còn các bậc diễn giả trên ti-vi thì đúng là “vô tiếng tàng hình”; phải chăng là … “Khổng Tử đăng Thái Sơn nhi tiểu thiên hạ”!).
Sau này tôi có được gặp lại thầy một lần nữa, nhưng ở nơi trường mới (Nguyễn Huệ?) do thầy làm hiệu trưởng, khi đến xin lại học bạ. Cũng như đối với các học sinh khác, như thường lệ thầy gọi tôi là “con”, và nhanh chóng giải quyết vấn đề, khiến tôi càng quý mến thầy thêm. Nhưng rồi năm tháng qua đi, chỉ một đôi lần tôi được thấy thầy chạy xe lướt qua ở khu vực gần trường Hưng Đạo, phường 1, quận 11; rồi một lần vào năm khoảng năm 2003, trong một tiệm phở ở đường Lý Chính Thắng, tôi thấy thầy bước vào, nhưng tôi không dám chào thầy vì lúc đó, rủi thay, bị trúng thực, gần muốn xỉu. Lúc đó, trông thầy vẫn khỏe mạnh (xưa thầy hay than bịnh hoài?), thiệt đáng mừng!

Còn thêm một người thầy gây ấn tượng là thầy dạy toán Lê Kim Anh (trường Mạc Đĩnh Chi, Q.6, TP.HCM). Thầy vốn là người miền Trung (thầy sống trong khuôn viên trường Mạc Đĩnh Chi, thỉnh thoảng mới về thăm quê, lúc đó thường nói giỡn “chừng nào các em thấy trời u ám, mưa lâm râm là biết (xe lật)…”, có phong cách khác người (đầu húi cua đầy ấn tượng, hình như tư tưởng chịu ảnh hưởng của thầy mình là Cù An Hưng, “nửa toán nửa văn”), có biệt tài vẽ vòng tròn bằng tay không, khỏi dùng com-pa (thầy giỡn “hai chỉ đó”, nghĩa là kĩ năng đó giúp thầy kiếm thêm 2 chỉ một tháng, phải không các bạn Mạc Đĩnh Chi?). Thầy dạy toán thường theo phong cách ngắn gọn, chỉ viết vài dòng nên nhiều bạn không hiểu nổi, nhất là làm bài thi cho người khác chấm theo giáo án thì bất lợi vô cùng.
Thỉnh thoảng tôi có nghe thầy hát thầm các bài hát của Duy Khánh (“xa phương trời nào xin em hiểu, anh vẫn tôn thờ bóng hình em”). Tôi hâm mộ Duy Khánh một phần cũng từ những câu hát thầm đó.
Đã nhiều năm không gặp lại thầy, nhưng các bạn học cũ “biết chuyện” cho biết vẫn thường thấy thầy đi nhậu thì cũng an tâm (“đây men rượu nồng cho em đó, thay tiếng em cười vút ngàn sau”).

Khi xưa theo học lớp Anh văn buổi tối tại Đại học Sư phạm TP.HCM, tôi có dịp học một khóa với thầy Trần Chí Thiện. Ngày vào lớp đầu tiên, thầy xổ một tràng tiếng Anh mà hình như cả lớp không ai hiểu gì cả vì thầy nói … nhanh quá! Rồi trong lúc giảng dạy thì thầy thường biểu lộ niềm đam mê học tập của mình, nhất là với tiếng Anh (thầy nói rằng mình dạy xong thì về nhà, hình như ở đường Huỳnh Văn Bánh?, đóng cửa học, không đi chơi bời, bù khú…; sau này có bản phô-tô kể chuyện thầy quyết tâm học tiếng Anh từ lúc 16 tuổi với chiếc ra-đi-ô luôn luôn ở bên mình). Thầy chia sẻ bài hát thầy thích nhất, cũng là ước nguyện của thầy, mà có lẽ chỉ là do cái tựa: “I have a dream” [tôi có một niềm ước mơ], vì khi tôi hỏi riêng, thầy trả lời đại khái (vì thầy có nói “không tiện nói”) là mình “muốn làm cầu nối bang giao Việt – Mỹ”.
Nói chung, niềm đam mê tiếng Anh của thầy khiến tôi có ấn tượng sâu sắc. Trong một cuốn sách thầy soạn, hình như là duy nhất, trích dẫn những câu dịch hay (theo tôi thật sự là “đáng đồng tiền bát gạo”; còn lúc trước thì tôi chưa có khả năng đánh giá được kĩ năng nói của thầy), thầy có bàn về phương pháp học kĩ năng nghe, đại khái (theo trí nhớ) “phải nghe suông, cỡ chừng 10 năm sau thì hiểu lõm bõm, 20 năm thì thông hiểu hầu hết, 30 năm thì thấy … sướng vô cùng” (thầy từng nói “học được một chữ mới thì thấy sướng vô cùng”), còn soạn từ điển thì theo thầy không có gì khó lắm (có giai thoại ở trường về cuộc thi kĩ năng viết giữa thầy, vốn chỉ có bằng cử nhân, và một vị khác có học vị tiến sĩ học ở nước ngoài về; bài viết của thầy không có (hoặc rất ít) lỗi, còn của vị kia thì…).
Rồi sau đó, một ông thầy dạy Anh văn (cũng là người kể lại giai thoại trên) bất chợt kể: “tôi có hai ông thầy, đều giỏi nhưng không hợp nhau, mà cả hai đều mất sớm”; “ai vậy thầy?”, “thầy Hoàng Xuân Chinh và Trần Chí Thiện”.
Tôi thấy buồn.

Thêm một vị thầy nữa mà tôi rất kính trọng là thầy Thành (lỡ quên mất họ tên đầy đủ rồi; dạy Anh ngữ cho lớp Đại học tại chức trường Ngoại ngữ Sài Gòn thuộc Đại học KHXH&NV, môn giáo học pháp và Anh văn thương mại, năm 2001).
Thầy thường lấy thịt chó ra làm ví dụ cho những câu Anh văn mẫu: vừa hài hước, vừa dễ hiểu (“bà ngoại tôi thích ăn cháo chó, tôi thích ăn tiết canh chó,…”; không biết thầy thích xơi thực sự hay chỉ giỡn cho vui?).
Nhưng điều đáng kính trọng là thầy luôn luôn giảng dạy hết mình, từ lúc vào lớp cho đến khi hết giờ (có thể nói là người thầy trong số hiếm hoi không bao giờ sử dụng chiêu câu giờ, vốn thấy rất phổ biến).
Cầu cho thầy còn đủ sức khỏe giảng dạy và thưởng thức món “mộc tồn”!